Cho vay tài sản chung của hai vợ chồng

27/05/2021 13:28 | 2 năm trước

(LSVN) - Anh A. và chị B. kết hôn với nhau năm 2005, anh A. có tài khoản ngân hàng đứng tên anh A. từ năm 2018. Anh A. có rút tiền ngân hàng cho C. vay, việc vay được lập thành văn bản nhưng chị B. không biết. Trường hợp này nếu chị B. yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu có được không? C có được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015 không? Bạn đọc T. H. K hỏi.

Căn cứ cụ thể:

Điều 32, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

Điều 32. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.

1. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.

2. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.”

Tại khoản 1 Điều 133, Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.”

Tại Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

"Điều 16. Cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba

Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân sự".

Cần phải thấy rằng, anh A. rút tiền ngân hàng cho C. vay là giao dịch dân sự hợp pháp. A. cho C. vay là tài sản chung vợ chồng giữa anh A. và chị B. (bởi anh A. và chị B. kết hôn từ năm 2005 còn tài khoản anh A. mở và đứng tên từ năm 2018 là tài sản có được sau khi kết hôn). Tuy nhiên, nó là động sản nằm trong tài khoản Ngân hàng của A. nên A. có quyền định đoạt đối với tài sản này; bởi vậy chị B. không có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch giữa anh A. và C. vô hiệu, bởi C. là người thứ ba ngay tình, được pháp luật bảo vệ theo quy định Điều 133 tại Bộ luật Dân sự 2015.

Luật sư HÀ THỊ KHUYÊN

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Khởi kiện yêu cầu bệnh nhân nhiễm Covid-19 bồi thường thiệt hại được không?