Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

03/04/2020 19:35 | 4 năm trước

(LSO) - Thực tiễn xét xử cho thấy, việc giải quyết các vụ án hình sự trên thực tế mất rất nhiều thời gian, và có những vụ án nhiều tình tiết, đối tượng và sự việc phạm tội rất rõ ràng nhưng giải quyết lại mất nhiều thời gian. Vì vậy, trong những trường hợp cụ thể khi đáp ứng đủ điều kiện mà pháp luật quy định thì có thể áp dụng thủ tục rút gọn để giảm bớt thời gian giải quyết vụ án và đơn giản hóa một số thủ tục.

Ảnh minh họa.

1. Khái quát về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

1.1. Khái niệm

Hiện nay, không có một quy định nào của pháp luật định nghĩa về thủ tục rút gọn (TTRG), nhưng có thể hiểu thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, được rút ngắn về thời gian tố tụng, đơn giản hóa một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc trong tố tụng hình sự.

Như vậy, so với thủ tục thông thường thì TTRG sẽ được áp dụng để giảm lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định [1]. Thủ tục này đặt ra nhằm tạo điều kiện để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể rút ngắn thời gian giải quyết một số lượng lớn các vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, người thực hiện hành vi bị bắt quả tang hoặc tự thú; có nơi cư trú, lí lịch rõ ràng so với thời gian giải quyết vụ án thông thường. Điều này giúp tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc, góp phần hạn chế tồn đọng, giảm tải số lượng bị can, bị cáo trong các nhà tạm giam, tạm giữ.

1.2. Phạm vi áp dụng

Điều 455 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 quy định: “Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”.

So với quy định trong BLTTHS 2003, phạm vi áp dụng TTRG đã được mở rộng đến giai đoạn xét xử phúc thẩm (trước đây chỉ được phép áp dụng với giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm). Việc mở rộng phạm vi này đã đảm bảo mục đích, ý nghĩa, vai trò của TTRG, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Bởi vì, với điều kiện để giải quyết vụ án hình sự theo TTRG ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ phải xem xét lại việc áp dụng pháp luật của tòa án cấp sơ thẩm liên quan đến kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho người phạm tội, cho người phạm tội hưởng án treo[2].

1.3. Thẩm quyền quyết định áp dụng

Theo khoản 1 Điều 457 BLTTHS năm 2015, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy định tại Điều 456 BLTTHS  2015, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án phải ra quyết định áp dụng TTRG. Đồng thời, theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 36; điểm l khoản 2 Điều 41 và điểm c khoản 2 Điều 44 BLTTHS năm 2015, thẩm quyền này này lần lượt thuộc về thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, viện trưởng, phó viện trưởng VKS và chánh án, phó chánh án tòa án. Đối chiếu với quy định tương ứng trong BLTTHS 2003, quy định này có một vài điểm mới.

Theo khoản 1 Điều 320 BLTTHS 2003, sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, VKS có thể ra quyết định áp dụng TTRG. Với quy định này thì việc có quyết định áp dụng TTRG hay không tùy thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng vì điều luật chỉ quy định là “có thể” mà không bắt buộc phải ra quyết định áp dụng TTRG khi có những điều kiện nhất định. Với quy định này không tạo ra sự ràng buộc cũng như kích thích các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng TTRG trong điều tra, truy tố, xét xử.

Bên cạnh đó, theo các khoản 1, 3 Điều 320 BLTTHS 2003, thẩm quyền đề nghị áp dụng TTRG là cơ quan điều tra và thẩm quyền áp dụng TTRG là VKS mà chưa trao quyền quyết định áp dụng cho cơ quan điều tra, tòa án khi có đầy đủ các điều kiện áp dụng do luật định. Quy định này đã hạn chế việc áp dụng TTRG trong quá trình giải quyết vụ án do việc áp dụng TTRG trong các giai đoạn tố tụng phụ thuộc vào việc VKS có áp dụng hay không. Vì vậy, quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 457 BLTTHS năm 2015 đã khắc phục hạn chế về chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG và sự tùy nghi trong việc áp dụng TTRG được quy định trong BLTTHS năm 2003.

2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

Theo Điều 456 BLTTHS năm 2015, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng mà điều kiện áp dụng TTRG được quy định khác nhau. Cụ thể:

2.1. Đối với giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 456 BLTTHS 2015 TTRG  được áp dụng nếu có đủ các điều kiện:

- Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú;

- Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

- Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;

- Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.

Như vậy, dù chỉ thiếu một trong số 4 điều kiện nêu trên, vụ án cũng không được giái quyết theo thủ tục này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây là điều kiện bắt buộc áp dụng TTRG để giải quyết vụ án chứ không phải điều kiện để cho phép áp dụng. Việc có áp dụng TTRG này hay không không còn phải tùy thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng quyết định. Đây là một thay đổi quan trọng trong quá trình lập pháp nhằm tạo điều kiện cho thủ tục rút gọn được áp dụng phổ biến trong thực tiễn tố tụng hình sự.

Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú

Để được xem là đáp ứng điều kiện đầu tiên này, phải thỏa mãn một trong hai trường hợp, một là người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc hai là người thực hiện hành vi phạm tội tự thú. Đây là điều kiện đầu tiên để có thể xem xét áp dụng thủ tục rút gọn bởi tính chất rõ ràng, đơn giản về mặt chứng cứ và chứng minh, do đó, vụ án được xem là có căn cứ để giải quyết nhanh chóng và chính xác[3].

Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang là người bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi phạm tội mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Việc bị bắt hay bị phát hiện, đuổi bắt ở đây được hiểu là có thể do người đang thực thi nhiệm vụ bắt hoặc bị người dân bắt được sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Đặc điểm của phạm tội quả tang là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng, có thể nhận biết ngay đó là tội phạm mà chưa cần điều tra, xác minh. Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang thường nhận tội ngay, chứng cứ tương đối đầy đủ, người làm chứng, bị hại cũng thường được xác định cụ thể[4]. Đây là điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh sự thật vụ án. Do đó, việc quy định đây là điều kiện để áp dụng TTRG là hợp lý, đảm bảo vụ án được tiến hành tố tụng nhanh chóng trong một thời gian hợp lý.

Được coi là người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang nếu thuộc một trong ba trường hợp sau:

Trường hợp 1: Người đang thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện. Tức là người phạm tội đang thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm cụ thể. Trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu tội mà BLHS quy định phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn này thì cũng được coi là phạm tội quả tang.

Trường hợp 2: Ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội mà bị phát hiện. Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện xong hành vi phạm tội, các hành vi khách quan đã được thực hiện hết, đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội phạm và tội phạm vừa được thực hiện xong nhưng chưa kịp tẩu thoát hoặc cất giấu phương tiện, công cụ phạm tội thì bị phát hiện và bắt giữ[5].

Trường hợp 3: Đang bị đuổi bắt, đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện, bỏ chạy và bị bắt. Với trường hợp này, cần lưu ý về tính liên tục từ thời điểm phát hiện hành vi phạm tội - người phạm tội bỏ chạy và quá trình đuổi bắt. Mặc dù không phụ thuộc vào thời gian và cự ly đuổi bắt dài hay ngắn, nhưng việc đuổi bắt đó phải là liên tục, nếu có sự gián đoạn về thời gian thì không được coi là bắt quả tang.

So với quy định tương ứng trong BLTTHS năm 2003, quy định về điều kiện này tại khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015 kế thừa quy định tại Điều 319 BLTTHS năm 2003 nhưng có sự mở rộng, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính hợp lý và đảm bảo ý nghĩa của TTRG.

Theo đó, về dấu hiệu liên quan đến người phạm tội, bên cạnh dấu hiệu “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang” đã bổ sung dấu hiệu “người phạm tội tự thú” cũng được áp dụng TTRG. Người phạm tội tự thú được hiểu là người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hay người phạm tội bị phát hiện. Việc bổ sung này phản ánh yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và phát huy ý nghĩa của việc áp dụng TTRG. Bởi vì, việc quy định điều kiện liên quan đến người phạm tội không nhằm mục đích nào khác là dễ dàng điều tra, truy tố, xét xử vụ án vì khi đó, các tài liệu, chứng cứ để chứng minh các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự đã có thể xác định ngay thời điểm xác định được dấu hiệu này, rút ngắn thời gian điều tra vụ án[6]. Trên thực tế, có nhiều vụ án mà “người phạm tội tự thú” về hành vi phạm tội của mình thì nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng phù hợp với việc áp dụng TTRG để giải quyết.

Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng

Sự việc phạm tội được coi là đợn giản khi có ít người phạm tội, việc giải quyết vụ án không liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, hành vi phạm tội rõ ràng, cơ quan tiến hành tố tụng dễ xác định người phạm tội, nhân thân người phạm tội và hành vi phạm tội. Hoặc cũng có thể hiểu phạm tội đơn giản là:

- Sự việc mà các tình tiết cần chứng minh là không phức tạp và dễ xác định. Các tình tiết của hành vi phạm tội đơn giản, vụ án thường ít bị cáo hoặc có thể nhiều nhưng không phải phạm tội có tổ chức hoặc đồng phạm phức tạp, khó xác định vai trò, vị trí của từng đối tượng.

- Người thực hiện tội phạm thông thường là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi của người đó là lỗi cố ý, dễ xác định.

- Mục đích phạm tội thường là lợi ích vật chất, động cơ vụ lợi tức thời, dễ xác định.

- Việc giải quyết các sự việc phạm tội này cũng không liên quan đến chính sách dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán hay các vấn đề xã hội phức tạp.

Chứng cứ rõ ràng được hiểu là chứng cứ thu thập ngay tại thời điểm người phạm tội bị bắt quả tang bao gồm những tang vật được thu tại hiện trường hoặc những chứng cứ được thu thập đầy đủ ngay từ đầu qua lời khai của bị hại, người chứng kiến. Cụ thể hơn, đây là những chứng cứ không thể gây nghi ngờ gì về việc thu thập, bảo quản và giá trị của nó, là những chứng cứ phản ánh đầy đủ, chính xác, toàn diện những vấn đề phải chứng minh trong vụ án, xác định nhanh chóng và chính xác các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Các chứng cứ này phải được thu thập và xử lý theo biện pháp và trình tự do pháp luật quy định[7].

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo TTRG, hai yếu tố sự việc phạm tội đơn giản và chứng cứ rõ ràng phải được đặt trong mối tương quan chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Tính chất sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng phải tồn tại suốt quá trình giải quyết vụ án.

Sự việc phạm tội là sự việc ít nghiêm trọng

Việc phân loại tội phạm theo quy định của BLHS nước ta chủ yếu căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt có thể áp dụng đối với hành vi phạm tội đó chứ không phân loại theo mức độ đơn giản hay phức tạp của hành vi phạm tội. Theo quy định của BLHS, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội đó là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù không quá 03 năm.

Như vậy, dấu hiệu nội dung chính trị - xã hội của loại tội này là tính nguy hại không lớn cho xã hội, dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý có thể phải chịu của người phạm tội là không lớn nên việc xử lý có thể nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp việc xử lý không chính xác thì hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng so với các loại tội phạm khác[8].

Trên thực tế đặt ra điều kiện này đã làm giảm số vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn vì có những vụ án trộm cắp tài sản bắt quả tang sự việc rất rõ ràng nhưng khi định giá tái sản thì đã làm cho khung hình phạt lên đến tội nghiêm trọng nên việc giải quyết theo thủ tục chung gặp nhiều khó khăn

Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng

Mới nhìn về hình thức, quy định này đã có sự sửa đổi trên cơ sở kế thừa quy định của BLTTHS năm 2003. Trong khi khoản 4 Điều 319 BLTTHS 2003 quy định người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng thì quy định mới lại ghi nhận người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.

Mặc dù cả hai quy định đều có chung cơ sở là dấu hiệu về nhân thân của người phạm tội. Tuy nhiên, việc quy định như BLTTHS  2003 khiến cho thực tế áp dụng quy định này cho thấy, nhận thức của những người tiến hành tố tụng về điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng” là chưa thống nhất. Để khắc phục vướng mắc trên, Điều 456 BLTTHS 2015 đã sửa đổi thay cụm từ “có căn cước, lai lịch rõ ràng” bằng cụm từ “có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”.

Người phạm tội có nơi cư trú, lai lịch rõ ràng là người phạm tội có nơi ở ổn định, đã được xác định và có lý lịch đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là rõ ràng, không mất thời gian xác minh[9]. Nơi cư trú, lý lịch của người phạm tội là vấn đề cần làm rõ trong khi giải quyết vụ án. Qua việc xác định nơi cư trú và lý lịch của người phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng có thể làm rõ được nhiều yếu tố về nhân thân của người đó, trên cơ sở đó đưa ra những nhận định, kết luận đúng đắn trong việc định tội và quyết định hình phạt, như việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng được coi là điều kiện để áp dụng TTRG vì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không mất nhiều thời gian để điều tra xác minh nên có thể rút ngắn thời gian giải quyết vụ án mà vẫn đảm bảo cho việc xem xét, giải quyết những vấn đề của vụ án được chính xác. Ngược lại, nếu nơi cư trú, lý lịch của người phạm tội không rõ ràng thì không được phép áp dụng thủ tục rút gọn.

2.2. Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm

Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, do đây cũng là một cấp xét xử nên vấn đề giải quyết theo TTRG cũng được đặt ra. Theo đó, khoản 2 Điều 456 BLTTHS 2015 đã nêu lên các điều kiện để áp dụng thủ tục này trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Khác với khoản 1 khi quy định về các điều kiện áp dụng TTRG trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm (phải đáp ứng đầy đủ 4 điều kiện) thì khoản 2 lại quy định chỉ cần thỏa mãn một trong hai điều kiện nêu lần lượt tại điểm a, b khoản này thì đã có thể áp dụng TTRG. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, vụ án đã được áp dụng TTRG trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.

Thứ hai, vụ án chưa được áp dụng TTRG trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định được áp dụng thủ tục đó trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.

Như vậy, TTRG chỉ được áp dụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm khi vụ án đó đảm bảo các điều kiện áp dụng TTRG ở giai đoạn xét xử sơ thẩm (có thể TTRG đã được áp dụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc chưa áp dụng) và nội dung kháng cáo, kháng nghị chỉ xoay quanh việc áp dụng pháp luật khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, chứ không liên quan đến các vấn đề khác cần phải giải quyết trong vụ án (như: tội danh, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự…). Đây là quy định mới của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003 bởi BLTTHS 2003 chưa hề đề cập đến việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn phúc thẩm.

Việc giải quyết vụ việc nhanh chóng và đơn giản hóa các thủ tục trên thực tế là rất cần thiết nhưng không vì thế mà chúng ta nóng vội, đốt cháy giai đoạn giải quyết vụ án chạy theo số lượng để rồi bỏ lọt tội phạm và vẫn còn tình trạng oan sai. Chính vì vậy, việc quy định về các điều kiện áp dụng thủ tục là hết sức cần thiết và ngày phải được hoàn thiện hơn để dễ dàng áp dụng cũng như không bị lạm dụng.

Hoàng Đình DũngTAQSKV 2, QK 4

[1]: Trần Thị Thúy Ngọc, “Thủ tục rút gọn trong Tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học.
[2]: Bài viết: Quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục rút gọn, vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện – Cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp.
[3]: TS. Phạm Mạnh Hùng, Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2015, Nxb Lao Động 2018, Tr. 729.
[4]: Đại học quốc gia Hà Nội , Giáo trình: Luật tố tụng hình sự Việt Nam , PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội , Tr. 542.
[5]: Phan Thị Hải: “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự”, Khóa luận tốt nghiệp , Tr. 18.
[6]: Bài viết: Quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục rút gọn, vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện – Cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp.
[7]: Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh - Giáo trình: Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Tr. 591.
[8]: Đại học quốc gia Hà Nội - Giáo trình: Luật tố tụng hình sự Việt Nam – PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí – Nxb Đại học quốc gia Hà Nội , Tr 544.
[9]: TS. Phạm Mạnh Hùng, Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2015 , Nxb Lao Động 2018, Tr.  730.
/mot-so-van-de-ve-toi-pham-tham-nhung.html