Đôi điều tâm sự về nghề luật sư trong tranh tụng hình sự

19/07/2020 00:54 | 3 năm trước

(LSO) - Một luật sư có trách nhiệm và kỹ năng hành nghề tốt, có thể tìm thấy trong hồ sơ những điểm sáng còn ẩn khuất giữa bề bộn các tài liệu, chứng cứ có giá trị pháp lý giúp cho thân chủ của mình được hưởng sự công minh của pháp luật.

Tôi hành nghề luật sư đến nay đã gần ba mươi năm, với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Vui, khi thấy thân chủ của mình bị hàm oan đã được minh oan; buồn, khi thấy nỗi oan có thật của họ mà vì một lý do nào đó vẫn không giải được nỗi oan ấy.

Nghề luật sư là một nghề có tính đặc thù là cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Một người bị truy tố ra trước tòa án có nghĩa là người đó sẽ phải chịu sự phán xét của pháp luật về số phận pháp lý gắn liền với các chế tài nghiêm khắc. Dịch vụ pháp lý mà luật sư cung cấp cho khách hàng cũng gắn liền với sinh mệnh của họ. Một luật sư có trách nhiệm và kỹ năng hành nghề tốt, có thể tìm thấy trong hồ sơ những điểm sáng còn ẩn khuất giữa bề bộn các tài liệu, chứng cứ có giá trị pháp lý giúp cho thân chủ của mình được hưởng sự công minh của pháp luật. Có điều, luật sư hành nghề chỉ nhân danh cá nhân chứ không phải nhân danh quyền lực. Sức mạnh của luật sư chỉ thể hiện ở các luận lý có sức thuyết phục, còn quyền quyết định số phận pháp lý của bị cáo như thế nào là thuộc về Hội đồng xét xử.

Để có được công lý, những người được giao trọng trách xét xử phải thực sự là những người có kiến thức sâu về pháp luật, có trách nhiệm với nghề nghiệp và phải có sự công tâm. Nếu các quan tòa có được phẩm chất ấy thì họ sẵn sàng chấp nhận các luận lý do luật sư đưa ra để có một phán quyết đúng pháp luật.

Luật sư Nguyễn Minh Tâm.

Cách đây hơn hai mươi năm, tôi đã viết một bài thơ có tiêu đề “SỰ THẬT” để tặng các vị thẩm phán. Bài thơ có đoạn kết như sau: “Sự thật trụi trần, sự thật lặng im/ Lẩn khuất sau bao nhiêu tình tiết/ Song tất cả cũng chỉ là vô ích/ Khi chẳng còn sự thật ở trong anh”.

Phiên tòa, về tính chất là một cuộc điều tra công khai. Toàn bộ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố phải được xem xét, đánh giá công khai tại phiên tòa qua phương pháp điều tra xét hỏi, đối chất, kiểm tra làm rõ tính thống nhất hay tính mâu thuẫn của các chứng cứ buộc tội hoặc vô tội. Tranh luận tại phiên tòa là một phương pháp để hai phía - công tố và luật sư - trình bày quan điểm, đối đáp với nhau, mong làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tranh luận chính là việc xem xét, đánh giá chứng cứ, đưa ra các luận cứ, luận chứng buộc tội hoặc gỡ tội.

Về nguyên tắc, tranh luận phải đi đến tận cùng của sự thật. Thế nhưng, trong khá nhiều vụ án, việc tranh luận chỉ mang tính hình thức, một chiều.

Gần đây, tôi dự một phiên tòa được dư luận rất quan tâm. Để chuẩn bị bào chữa cho bị cáo, chúng tôi đã dày công nghiên cứu, hệ thống hóa hồ sơ và trình bày một bài bào chữa gần 30 trang, trong đó chứng minh rất rõ ràng quan điểm pháp lý của chúng tôi. Trong khi đó, bản luận tội của phía công tố vẻn vẹn chỉ có vài ba trang đánh máy, nêu những nhận định chung chung, không phải là một bản luận cứ chứng minh bị cáo có tội. Việc đối đáp sau đó từ phía công tố cũng chỉ mang tính hình thức, không trực tiếp tranh luận với những nội dung trong bài bào chữa của chúng tôi, để đến nỗi chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu đại diện VKS tranh luận thẳng vào từng vấn đề do luật sư đưa ra.

Bức tranh tố tụng tranh luận đối đáp như thế thật nhạt nhòa, tác dụng và sức hấp dẫn của nó thế nào thì chắc ai cũng biết. Có những phiên tòa như thế đã xảy ra, không phải là phổ biến, nhưng cũng không ít và ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.

Nói như thế để thấy rằng, nghề luật sư gắn liền với các hoạt động tư pháp, là một thành tố tạo nên bộ mặt văn minh của nền tư pháp nước nhà, như nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói: Luật sư là một chân trong cái kiềng ba chân của hệ thống tư pháp.

Từ khi có Nghị quyết 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, và đặc biệt là Nghị quyết 49 về chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị, vai trò của luật sư đã được coi trọng hơn, góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo dân chủ trong hoạt động tố tụng xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, hoạt động tư pháp xét xử vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi những người có thẩm quyền xét xử  phải thực sự tôn trọng các quyền pháp định của luật sư trong quan hệ tố tụng ở từng vụ án cụ thể. Đừng vì quan niệm hạn hẹp về thời gian, hoặc vì lý do nào đó để dùng quyền điều khiển phiên tòa mà cắt ngang lời bào chữa đúng trọng tâm của luật sư, làm cho họ rơi vào tình trạng “mất lửa”, dẫn đến tiêu cực, chán chường. Chỉ khi nào, nghề luật sư thực sự được tôn trọng và bản thân người hành nghề luật sư ý thức được sứ mệnh cao cả của mình là “phụng sự công lý” thì khi đó, chúng ta mới thực sự có một nền tư pháp trong sạch.

Tôi điểm một vài nét về bức tranh tố tụng xét xử trong quan hệ giữa luật sư với công tố và tòa án là để muốn nói một điều rằng: Thẩm phán, công tố và luật sư đều là những người hành nghề luật, cùng có một mục đích chung là bảo vệ công lý, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, chỉ có sự khác biệt về tính chất nhân danh để hành nghề. Sự khác biệt ấy có thể là yếu tố tác động đến tâm lý của mỗi người khi thực hiện nhiệm vụ của mình tại phiên tòa. Vượt qua cái rào cản tâm lý ấy, chúng ta sẽ có cách nhìn bản chất về hoạt động xét xử và bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người, vì một lý do nào đó phải ra trước vành móng ngựa để chịu sự phán xét của pháp luật.

Xét xử, về tính chất là hoạt động xem xét, đánh giá chứng cứ, mà đánh giá chứng cứ lại là những thao tác của tư duy, mang tính chất chủ quan tùy theo trình độ và nhận thức của mỗi người. Điều này thể hiện rất rõ trong các bản án đã tuyên xử. Thực ra, để đánh giá luận lý của luật sư có căn cứ hay không đòi hỏi người thẩm phán và cả Hội đồng xét xử phải là những người có trình độ giỏi hơn các luật sư, biết trong luận lý đó, điều gì có căn cứ hoặc không có căn cứ để chấp nhận hoặc bác bỏ. Nhận định thế nào về quan điểm của luật sư phải được Hội đồng xét xử thể hiện trong bản án.

Trong thực tế, có bản án không dám nhận định hoặc nhận định chung chung, thậm chí sai lệch quan điểm bào chữa của luật sư để rồi lạnh lùng bác bỏ toàn bộ luận cứ ấy. Trong nhiều trường hợp, qua diễn biến phiên tòa trong tranh luận đối đáp, phần “thắng” thuộc về luật sư, nhưng rốt cuộc, phần “thắng” ấy vẫn không được thể hiện trong bản án!

Điều day dứt của luật sư còn thể hiện ở chỗ, sau khi nghe tuyên án, người tham dự có cảm tưởng, Hội đồng xét xử đã tuyên một bản án “có sẵn”, thường gọi là “án bỏ túi”. Những bản án này không mang hơi thở của sự sinh động trong diễn biến tranh tụng xét xử công khai tại phiên tòa, không đúng với tinh thần của Chỉ thị 08 và Nghị quyết 49 rằng: “Bản án phải là kết quả của sự tranh tụng tại phiên tòa”. Tinh thần đó đã được pháp điển hoá thành một nguyên tắc cơ bản trong Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015: “Bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.

Hiện tượng nghị án chỉ khoảng vài chục phút nhưng thời gian tuyên đọc bản án kéo dài hàng tiếng đồng hồ không phải là cá biệt. Tâm trạng của luật sư sau khi nghe những bản án như thế, nỗi buồn cứ ám ảnh mãi, rất khó nguôi ngoai.

Tôi đã từng nghe một số luật sư đồng nghiệp thực sự có tâm, có tầm day dứt vì một mặc cảm không hoàn thành trách nhiệm với thân chủ, không bảo vệ được điều mà mình tin rằng là đúng, nên có tâm trạng muốn bỏ nghề luật sư tranh tụng để làm luật sư tư vấn. Trong thực tế, đã có luật sư bỏ nghề tranh tụng, chỉ hành nghề tư vấn để tránh khỏi cái cảm giác “đau khổ và thất vọng”. Có thể nói, đó là một trạng thái tâm lý tiêu cực không nên có từ phía luật sư, nhưng bình tâm suy ngẫm lại, trước thực trạng như thế, luật sư làm được gì khi mình đã thực sự rơi vào cảnh “lực bất tòng tâm”?.

Một người đã phải nhiều lần đau khổ và thất vọng nghề nghiệp thì chắc chắn sẽ sinh ra những chán chường, âu đó cũng là quy luật logic của sự phát triển tâm lý. Đây là một điều đáng để cho chúng ta suy ngẫm trong sự nghiệp xây dựng một nền tư pháp văn minh. Tôi cũng có những lần thất vọng và mang nặng cái tâm trạng ấy, nhưng tự thấy đó chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển. Chỉ cần nhìn lại thực trạng tư pháp xét xử cách đây 10-20 năm, sẽ thấy hoạt động tư pháp đã có những bước chuyển biến theo hướng tốt hơn. Hãy nuôi dưỡng niềm tin vào cải cách tư pháp, mặc dù hiện nay vẫn còn nhiều thực trạng đáng buồn.

Để kết thúc lời tâm sự, tôi chỉ thầm mong ước mấy điều giản đơn: Một là, trong tranh luận, đối đáp, đại diện VKS thực hành quyền công tố hãy cùng chúng tôi đi đến tận cùng của sự thật khách quan, để các luật sư chúng tôi, có “thua” cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.

Hai là, Hội đồng xét xử hãy thực sự là cơ quan trọng tài trong cuộc tranh luận, đối đáp giữa công tố với luật sư, để phán quyết cho công minh. Bên nào có lập luận vững chắc, có sức thuyết phục thì nên chấp nhận quan điểm của bên đó. Việc đánh giá quan điểm hai bên phải được thể hiện trong bản án, để mọi người thấy được tính thuyết phục của bản án nhân danh quyền lực Nhà nước trong quyết định số phận pháp lý của con người.

Ba là, Hội đồng xét xử hãy giữ đúng nguyên tắc “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” để phán quyết. Có được điều này, không thể không khẩn cầu các cấp ủy Đảng hãy thực hiện đúng nội hàm của khái niệm “Đảng lãnh đạo hoạt động tư pháp” để tránh tình trạng có những người, những cấp can thiệp sâu vào hoạt động nghiệp vụ của các ngành tư pháp, đặc biệt là tư pháp xét xử. Đảng lãnh đạo thế nào để tạo mọi điều kiện cho tư pháp xét xử bảo đảm được nguyên tắc này, thực hành dân chủ trong hoạt động xét xử. Đây là điều vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tư pháp nước nhà mà nếu không có nó, hoặc nó chỉ là hình thức thì chắc chắn, nền tư pháp sẽ không phát triển, xứng đáng với niềm mong mỏi và tin cậy của nhân dân.

Luật sư NGUYỄN MINH TÂM

/cong-tac-tu-phap-06-thang-dau-nam-2020-tiep-tuc-dat-duoc-nhieu-ket-qua-quan-trong-gop-phan-on-dinh-va-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cua-dat-nuoc.html