Liên đoàn Luật sư Việt Nam đóng góp ý kiến về việc hoàn thiện pháp luật: Góp ý các quy định pháp luật về dịch vụ bổ trợ tư pháp, tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp

18/06/2020 05:00 | 3 năm trước

(LSO) - Ngày 06/4/2020 Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhận được Công văn số 1202/TCT ngày 01/4/2020 của Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật đề nghị thông tin, phản ánh những vướng mắc, hạn chế, của quy định pháp luật trong một số lĩnh vực gây khó khăn, kìm hãm phát triển sản xuất, kinh doanh, kinh tế - xã hội và đề xuất hướng hoàn thiện.

Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tổng hợp thông tin, phản ánh của các luật sư, các Đoàn Luật sư về những vướng mắc, hạn chế, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn của các quy định pháp luật trong một số lĩnh vực được yêu cầu.

Ngày 28/4/2020, Liên đoàn Luật sư Việt Nam có văn bản số 108/LĐLSVN, về việc thông tin, phản ánh những vướng mắc, hạn chế, của quy định pháp luật trong một số lĩnh vực gây khó khăn, kìm hãm phát triển sản xuất, kinh doanh, kinh tế - xã hội. Văn bản gửi Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật.

Sau đây là góp ý các quy định pháp luật về dịch vụ bổ trợ tư pháp, tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp.

Ảnh minh họa.

I. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ 

Luật Luật sư năm 2006 đã được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung vào năm 2012. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư đã có những thay đổi về thời gian đào tạo nghề luật sư (nâng từ 6 tháng lên 12 tháng), quy định về nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với luật sư, nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư, giao trách nhiệm tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam, quy định việc thống nhất Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam... Những quy định nêu trên của Luật Luật sư đã góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư, góp phần nâng cao hình ảnh của đội ngũ luật sư trong xã hội, tăng tính tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp luật sư trong giám sát và hoạt động hành nghề luật sư. 

Tuy nhiên, ngoài những quy định tạo thuận lợi cho hoạt động hành nghề của luật sư thì pháp luật về luật sư hiện hành vẫn tồn tại quy định không thống nhất, bất cập, quy định chung chung chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc quy định chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động hành nghề luật sư đã gây ra khó khăn cho hoạt động hành nghề luật sư cũng như hoạt động tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Cụ thể là: 

1. Về tiêu chuẩn trở thành luật sư và các trường hợp được miễn đào tạo nghề và miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư 

Luật Luật sư quy định về tiêu chuẩn trở thành luật sư (Điều 10) còn chung chung, một số đối tượng được miễn đào tạo nghề (Điều 13) trong khi đào tạo nghề luật sư và đào tạo các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên là khác nhau; miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề (Điều 16) không phân biệt, loại trừ người đã từng vi phạm pháp luật, bị kỷ luật... dẫn đến có trường hợp vi phạm pháp luật, bị xử lý kỷ luật ở nơi công tác cũ lại chuyển sang làm luật sư dẫn đến chất lượng luật sư không bảo đảm, mất lòng tin của xã hội đối với đội ngũ luật sư. 

Đề nghị: quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn là luật sư (đặc biệt đối với những người được miễn đào tạo, miễn giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư). 

2. Quy định không phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự 2015  

Điều 27 Luật Luật sư quy định cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, trong khi đó theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì cơ quan tiến hành tố tụng không còn cấp giấy chứng nhận người bào chữa mà cấp đăng ký người bào chữa. 

Đề nghị: rà soát, chỉnh sửa cho thống nhất. 

3. Hoạt động dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư 

Luật Luật sư, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã quy định “Hành nghề luật sư” là ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Tư vấn pháp luật thuộc phạm vi hành nghề của luật sư theo quy định của các điều 4, 22, 28 Luật Luật sư. Tuy nhiên, hiện nay có tình trạng coi tư vấn pháp luật như hoạt động hành nghề bình thường để cấp đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp cũng được kinh doanh ngành, nghề tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, gây ra sự bất bình đẳng, cạnh tranh không lành mạnh giữa những người hành nghề luật sư theo Luật Luật sư với những cá nhân, doanh nghiệp khác không phải đáp ứng các điều kiện hành nghề như luật sư. 

Đề nghị: Cần quy định rõ chỉ luật sư và một số đối tượng đáp ứng được các yêu cầu hành nghề luật sư (như trợ giúp viên pháp lý, tư vấn viên pháp luật) mới được thực hiện hoạt động hành nghề như luật sư, vì đây là một hoạt động chuyên môn đặc thù, đòi hỏi trình độ đào tạo cao, có kiến thức và kỹ năng chuyên môn. Đồng thời, bổ sung quy định chế tài đối với những người không phải là luật sư nhưng hoạt động hành nghề tương tự như luật sư. 

4. Về quy định thành viên của Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam 

Điều 60, 64 Luật Luật sư quy định “thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư”, “thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam là các Đoàn luật sư và các luật sư.” không quy định tổ chức hành nghề luật sư là thành viên của Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, tạo ra sự cắt khúc trong một quan hệ tổng thể là luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư, gây ra những bất cập, khó khăn trong việc xử lý mối quan hệ giữa tổ chức xã hội-nghề nghiệp luật sư trong việc quản lý theo chế độ tự quản đối với hoạt động của thành viên và các tổ chức hành nghề luật sư. 

Đề nghị: xem xét bổ sung quy định thành viên của Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam có thể là các tổ chức hành nghề luật sư (nếu tự nguyện tham gia). 

5. Về trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư 

Điều 8 khoản 2 Điểm b Luật kinh doanh Bảo hiểm (được sửa đổi, bổ sung 2010) quy định: “Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật”. Điều 40 khoản 6 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định Tổ chức hành nghề luật sư phải mua Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. 

Việc quy định không đầy đủ, thiếu thống nhất về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp dẫn đến tổ chức hành nghề luật sư, luật sư không mặn mà trong việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Bởi lẽ, tư vấn pháp luật chỉ thuộc một lĩnh vực hành nghề của luật sư và còn rất ít rủi ro trong hoạt động nghề nghiệp luật sư.

Đề nghị: cân nhắc quy định cụ thể hơn về trách nhiệm mua bảo hiểm nghề ngiệp của luật sư. 

6. Vướng mắc về một số quy định liên quan đến hoạt động hành nghề của luật sư 

Thứ nhất, Khoản 2 và khoản 4 Điều 22 Luật Luật sư quy định về phạm vi hành nghề luật sư, theo đó luật sư được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính; việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật và đại diện ngoài tố tụng cho khách hang để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. 

Tuy nhiên, Luật chưa quy định về thủ tục đại diện của luật sư khi thực hiện công việc đại diện trong và ngoài tố tụng, vì vậy, khi làm đại diện luật sư phải thực hiện theo thủ tục ủy quyền của pháp luật dân sự dẫn đến tình trạng khi tham gia giải quyết các vụ việc, người nhận ủy quyền là luật sư không được các cơ quan có thẩm quyền thừa nhận tư cách đại diện theo quy định của Luật Luật sư (có thể bị “tước” tư cách là luật sư) vì cho rằng Bộ luật Dân sự không có quy định về đại diện của luật sư và chỉ coi đó là cá nhân thông thường nhận ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự. Điều này làm mất đi vị thế của luật sư khi thực hiện công việc đại diện. 

Đề xuất: Cần sửa đổi, bổ sung chế định về hoạt động đại diện của luật sư, quy định về thủ tục thực hiện công việc đại diện của luật sư trong Luật Luật sư, không theo quy định của Bộ luật Dân sự để đảm bảo luật sư thực hiện đúng và hiệu quả chức năng xã hội theo quy định của Luật Luật sư. 

Thứ hai, Khoản 1 Điều 30 Luật Luật sư quy định về hoạt động dịch vụ pháp lý khác của luật sư, trong đó có dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch... Tuy nhiên, quy định nêu trên không được cụ thể hóa dẫn đến hạn chế hoạt động cung cấp dịch vụ, thậm chí quy định này không đi vào thực tiễn. 

Đề xuất: cần có văn bản hướng dẫn về quy định của khoản 1 Điều 30 làm căn cứ để luật sư thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ, đảm bảo áp dụng pháp luật thống nhất, minh bạch. 

7. Về xác định tư cách bị hại và thời điểm luật sư của bị hại được tham gia tố tụng 

Khi tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại ở giai đoạn xác minh tin báo, luật sư gặp khó khăn do không được cơ quan điều tra chấp thuận tham gia tố tụng, dẫn đến quyền lợi của khách hàng không được bảo vệ kịp thời và đầy đủ do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng chứ không quy định về thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại tham gia tố tụng. 

Theo khoản 1 Điều 7 Thông tư số 46/2019/TT-BCA thì: “1. Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố”. Tuy nhiên, không có quy định rõ ràng về việc khi nào, như thế nào thì được coi là có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại. 

Đề xuất: có hướng dẫn làm rõ: thế nào là “có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại”; “Tư cách tham gia tố tụng của bị hại được xác định kể từ khi có thông báo tiếp nhận nguồn tin tố giác hay từ khi có quyết định khởi tố vụ án?” 

8. Vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật tại Điều 260 Bộ luật Hình sự 

Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Trong đó, khoản 1 của Điều này nêu các hậu quả vật chất của hành vi phạm tội như: gây thiệt hại cho tính mạng người khác, gây thương tích hoặc gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác với một tỷ lệ nhất định hoặc gây thiệt hại về tài sản ở mức độ nhất định. 

Khoản 2 Điều 260 đưa ra các mức thiệt hại cao hơn mức thiệt hại nêu tại khoản 1, đồng thời liệt kê thêm một số trường hợp người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác như: không có giấy phép lái xe; không chấp hành hiệu lệnh; sử dụng rượu, bia; bỏ chạy không cấp cứu người bị nạn... 

Vấn đề là khoản 1, khoản 2 Điều 260 là hai khoản độc lập, không có cụm từ nào dẫn chiếu các trường hợp thuộc khoản 1 là tình tiết định tội, các tình tiết  quy định tại khoản 2 là định khung tăng nặng. Do đó, hiện nay việc hiểu và vận dụng Điều luật này còn có ý kiến khác nhau. 

Loại ý kiến thứ 1 cho rằng: nội dung định tội của tội này là “Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác”; phần định khung được quy định riêng tại điểm a, b, c, d khoản 1 và các điểm a, b, c, d, e, g khoản 2. 

Loại ý kiến thứ 2 cho rằng: Khoản 1 quy định nội dung định tội, khi hành vi thỏa mãn nội dung định tội tại khoản 1 thì mới xem xét đến vấn đề tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 2. 

Vậy loại ý kiến nào là đúng? 

Đề xuất: đề nghị có hướng dẫn chi tiết về Điều 260 Bộ luật Hình sự. Trường hợp khoản 1 Điều 260 là nội dung định tội thì phải xem xét điều chỉnh mức độ tổn thất sức khoẻ, tài sản tại Điều luật này thấp hơn quy định hiện nay, có như vậy mới đủ để răn đe những người coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác. 

II. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG 

Khoản 3 Điều 22 Luật Công chứng 2014 quy định: “Tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận...”. 

Khoản 2 Điều 79 Luật Công chứng 2014 quy định: “... Trường hợp thay đổi một trong các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 24 của Luật này (Khoản 2 Điều 24 quy định: Văn phòng công chứng thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng công chứng) thì phải thay đổi tên gọi của Văn phòng công chứng”. 

Theo chúng tôi, các quy định nói trên của Luật Công chứng năm 2014 là không dựa trên căn cứ khoa học và không phù hợp với thực tiễn bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, Văn phòng công chứng là một tổ chức, một pháp nhân. “Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. (Khoản 5 Điều 2 Luật Công chứng 2014). Văn phòng công chứng đã là một tổ chức thì ngoài việc tuân thủ các quy định về chuyên môn nghiệp vụ còn phải thực hiện những quy định khác của pháp luật và xã hội như tổ chức quản lý, xây dựng thương hiệu, kê khai, nộp thuế…như một doanh nghiệp. Khi là một tổ chức thì ắt hẳn các Công chứng viên hợp danh đều mong muốn xây dựng tổ chức của mình vững mạnh, ổn định, có thương hiệu, phát triển lâu dài. Do đó tên gọi của Văn phòng công chứng phải mang tính xã hội, tính thẩm mỹ, đặc trưng của nghề nghiệp thì mới mang lại giá trị thương hiệu và niềm tin cho khách hàng. Việc quy định tên gọi của Văn phòng công chứng là tên của Công chứng viên hợp danh sẽ không đáp ứng được mong muốn đó.

Thứ hai, Văn phòng công chứng là mô hình Công ty hợp danh, các thành viên hợp danh đều có địa vị pháp lý ngang nhau, thậm chí việc góp vốn cũng bằng nhau nên việc thỏa thuận để lấy tên người nào đặt tên cho Văn phòng công chứng là điều “khó xử” của các Công chứng viên, quy định này vô hình chung gây nên những mẫu thuẫn, bức xúc trong nội bộ trong Văn phòng công chứng. 

Thứ ba, việc hành nghề của Công chứng viên không phải là bất biến. Có rất nhiều lý do khác nhau mà Công chứng viên trưởng văn phòng hoặc Công chứng viên hợp danh dùng tên mình để đặt tên cho Văn phòng công chứng chuyển sang hoạt động ở Văn phòng công chứng khác hoặc không hành nghề công chứng nữa (chết; mất năng lực hành vi; bị tước quyền hành nghề; già yếu; chuyển công việc khác...). Tương tự như vậy, đối với trụ sở Văn phòng công chứng, hầu hết các Văn phòng công chứng khi thành lập và hoạt động đều phải thuê trụ sở nên việc thay đổi trụ sở là điều thường xuyên xảy ra do nhiều lý do khách quan (nhà thuê bị giải tỏa, chủ nhà tăng giá bất hợp lý...). Luật Công chứng bắt buộc khi phát sinh những sự kiện này thì phải đổi tên Văn phòng công chứng là điều không cần thiết. Việc đổi tên (dẫn đến thay đổi con dấu) của một Văn phòng công chứng liên tục sẽ dẫn đến những hệ lụy sau: 

- Đối với tổ chức nội bộ Văn phòng đó, khi đổi tên Văn phòng phải thay đổi con dấu, biển hiệu, biểu mẫu...gây ra sự xáo trộn, mất ổn định, tốn kém tiền của. Bên cạnh đó là sự mất đi thương hiệu, giá trị của Văn phòng mà họ đã dày công xây dựng. 

- Đối với cơ quan quản lý Nhà nước (Tư pháp, Công an, Thuế, Bảo hiểm xã hội, Thống kê...) sẽ phải thực hiện các nghiệp vụ đăng ký, kê khai, sửa đổi... khi Văn phòng công chứng đổi tên... liên tục. Điều này gây nên sự tổn hại lớn đối với nhà nước và xã hội. 

- Đối với người dân, đây là chủ thể quan trọng nhất và phải chịu hậu quả lớn nhất từ việc Văn phòng công chứng đổi tên nhiều lần. Giao dịch dân sự của người dân có tính biến động rất lớn, trên thực tế có những việc công chứng, người dân phải thực hiện rất nhiều lần mà bắt buộc phải thực hiện ở Văn phòng công chứng mà họ đã thực hiện trước đó như hủy bỏ, sửa đổi hợp đồng, giao dịch; lưu giữ di chúc...Những rắc rối sẽ xảy ra nếu người dân và kể cả cơ quan nhà nước khi thực hiện thủ tục hành chính hoặc giải quyết tranh chấp không biết Văn phòng công chứng đã bị đổi tên. (Ví dụ: Người dân khi có việc phát sinh phải đi tìm Văn phòng công chứng Nguyễn Văn A nhưng không tìm thấy nữa (đã đổi tên thành  Nguyễn Văn B, thậm chí đổi đến X,Y,Z)...; Cơ quan hành chính, cơ quan tố tụng khi tiếp nhận hồ sơ, chứng cứ sẽ gặp những trường hợp cùng một đối tượng giao dịch, thực hiện tại một Văn phòng công chứng nhưng lúc thì tên này, lúc thì tên khác buộc họ phải yêu cầu đương sự xác minh, truy nguyên...). Gây ra sự bức xúc cho người dân, gây nên sự xáo trộn không đáng có cho xã hội. 

Từ những bất cập và phân tích nêu trên, đề nghị có những giải pháp kịp thời để sửa đổi, khắc phục, hạn chế những tiêu cực và thiệt hại xảy ra cho xã hội khi phải thực hiện những quy định bất hợp lý nói trên của Luật Công chứng. 

LSO
(Nguồn: Văn bản góp ý về rà soát văn bản quy phạm pháp luật, Liên đoàn Luật sư Việt Nam)
/gop-y-cac-quy-dinh-ve-lao-dong-viec-lam-an-sinh-xa-hoi.html
/cap-huyen-duoc-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat.html