Nạn đói năm 1945: Người còn sống kể chuyện

17/08/2018 17:35 | 5 năm trước

LSVNO - “Ở Hà Nội suốt mấy dãy phố từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, hàng mấy trăm ăn mày, thất tha thất thểu lũ lượt kéo nhau đi xin. Trên bờ hè, trên đám cỏ, đâu đâu chúng ta cũng thấy những bó chiếu,...

LSVNO - “Ở Hà Nội suốt mấy dãy phố từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, hàng mấy trăm ăn mày, thất tha thất thểu lũ lượt kéo nhau đi xin. Trên bờ hè, trên đám cỏ, đâu đâu chúng ta cũng thấy những bó chiếu, bó lá ở trong văng vẳng ra những tiếng rên kêu đói rét não nùng”, Báo Bình Minh, ngày 29/3/1945 ghi chép lại.

Hà Nội hồi bấy giờ là trung tâm kinh tế của cả xứ Đông Dương do thực dân Pháp lập ra, địa giới hành chính chủ yếu là 4 quận nội thành, với số dân 119.700 người vào năm 1943, chủ yếu là buôn bán hoặc làm việc cho chính quyền thực dân.

Hà Nội – "điểm hẹn" của người đói

Cuối năm 1944, nạn đói bắt đầu diễn ra trên khắp miền Bắc, và lên đến đỉnh điểm vào đầu tháng 3/1945. Những người bị đói ở các vùng Thanh – Nghệ, Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc… lũ lượt kéo về Hà Nội những mong kiếm được miếng ăn để nuôi thân. “Tập trung chủ yếu quanh các phố cổ bây giờ, các khu chợ, khu Bờ Hồ”, ông Đỗ Như Khánh (94 tuổi, phường Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng) cho biết.

Trại Giáp Bát – một trong những nơi tập trung người đói năm 1945 ở Hà Nội. Ảnh tư liệu.

Vào thời điểm năm 1945, gia đình ông Khánh ở phố Hàng Đẫy (nay là phố Nguyễn Thái Học) thường xuyên chứng kiến cảnh những chiếc xe kéo chất đầy xác chết, bên trên phủ manh chiếu rách, chân tay người chết thừa ra ngoài đi trên các con phố của Hà Nội.

Cũng theo ông Khánh, cảnh cướp bóc, tranh giành nhau miếng ăn không thiếu, nhiều người do nhịn đói lâu ngày đến khi kiếm được miếng ăn cũng lăn ra chết. Nhưng ông Khánh vẫn nhớ nhất cảnh lính Nhật giết hại dân mình.

“Hồi đó, Nhật đưa vào Hà Nội giống ngựa Mông Cổ cao to hơn cả đầu người, chúng mua cám của người dân cho ngựa ăn. Nhiều người đã trộn mùn cưa, đất vào cám để bán kiếm thêm lời, ngựa ăn phải lăn ra chết. Bọn lính Nhật đánh chết người bán cám, mổ bụng ngựa moi hết nội tạng ra rồi cho người vào khâu lại đem chôn. Dù nhân dân ta chết đói rất nhiều, nhưng thức ăn thừa của lính Nhật được chúng gom lại đem chôn hết”. Ông Khánh nói.

Dù phố phường Hà Nội ngập tràn những người chết đói ở các nơi tìm đến, nhưng hoàn cảnh của những người vốn sinh ra và lớn lên ở đây cũng chẳng khá hơn là bao. Hồi đó, thực dân Pháp có chính sách cấp thẻ mua gạo cho những người có khẩu ở Hà Nội, tuy không đủ no, nhưng cũng sống tạm qua ngày và ít bị chết đói.

Gia đình bà Lâm Thị Bốn (87 tuổi, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm) lúc đó ở gần ga Yên Viên (Gia Lâm), nhà bán cơm cho khách đi tàu: “Cuộc sống gia đình tôi lúc đó cũng chẳng dư giả gì, nhà bốn chị em gái, nhưng bố mẹ lúc nào cũng dặn các con phải tiết kiệm, bớt chút cơm gạo để cứu những người đói. Mỗi ngày nhà tôi nấu một nồi cháo loãng đem chia cho những người ốm yếu, mong họ sống được qua ngày. Hồi đấy nhiều nhà tham gia từ thiện lắm, họ góp từ manh chiếu, cái áo, đến cái dây buộc ủng hộ cho hội tế bần, hay ăn dè để bớt chút gạo cứu đói. Tôi biết có người nhờ những húp cháo loãng đấy mà sống sót được qua nạn đói”.

Bà Lâm Thị Bốn: “Nhờ những bát cháo loãng mà nhiều người thoát chết trong cơn đói”.

Sức người có hạn trước hàng nghìn người đói lê lết khắp phố xá, theo bà Bốn thì cảnh cướp bóc, tranh giành nhau miếng ăn thường xuyên diễn ra. Các gia đình ở gần đường đến bữa ăn phải đóng cửa lại, nếu không người đói xông vào tận nhà cướp miếng ăn ngay trên miệng.

Hai tháng chôn 2000 xác người chết đói

Ông Đặng Văn Việt (99 tuổi, phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng) vốn quê gốc Nghệ An, ra Hà Nội học Đại học Y từ năm 1942, khi Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương vào đầu tháng 3/1945 trường học của ông phải đóng cửa. Ông không về quê mà tình nguyện ở lại tham gia làm từ thiện giúp đồng bào.   

Bằng những đồng tiền của chị gái cho, ông đã cùng với các bạn sinh viên trong đội hướng đạo sinh đi thuê xe kéo, mua sắm những vật dụng bảo hộ chuẩn bị cho việc thu gom xác người chết đói ở Hà Nội đem đi chôn. Cả đoàn lúc đấy thuê được 10 xe ở khu vực cuối đường Đại Cồ Việt bây giờ, mỗi xe do 4 người phụ trách, ông là tổ trưởng phụ trách một xe. 

Hố chôn tập thể người chết đói. Ảnh tư liệu.

“Công việc bắt đầu từ 6 giờ sáng, mọi người tập trung ở hồ Hale, nay là hồ Thiền Quang, xe kéo đã được xích sẵn ở đó. Đoàn quân của chúng tôi chia nhau đi các phố như Quang Trung, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Trần Quốc Toản, ga Hàng Cỏ, hồ Hale, hồ Hoàn Kiếm…, ở đâu có người chết là nhặt cho lên xe. Vì bị đói lâu ngày xác chết cứ khô đét, chỉ còn xương, da nhăn nheo, xám ngoét nhìn không giống người”. Ông Việt nói.

Ông Việt nhớ nhất đó là trong lần đi gom xác chết bắt gặp cảnh bà mẹ bị chết đói ở bãi cỏ gần hồ Hale, nhưng đứa con chưa đầy 1 tuổi vẫn mải miết bú bầu vú chỉ còn lại nhúm da. Ông và các bạn phải tách đứa bé ra khỏi mẹ, đưa về trại tế bần ở khu vực hàng Trống bây giờ để được chăm sóc.

Mỗi chuyến xe các ông chở được 10 đến 15 xác chết, kéo theo đường Giải Phóng bây giờ, xuôi về khu Giáp Bát, làng Tám để chôn. Tại đây đã có người trong hội tế bần chuyên đào hố, mỗi hố rộng chừng 10-15m2, sâu chừng mét rưỡi. Các ông khiêng xác chết xếp vào hố, hết lớp này đến lớp khác, ông ví giống như xếp cá hộp. Mỗi hố chôn từ 100-200 người, các ông lấy đất phủ kín, nén chặt rồi thắp một bó hương khấn cầu cho linh hồn những người xấu số được siêu thoát.

Trung bình một ngày mỗi xe chở được 5, 6 chuyến, với khoảng 40, 50 xác. Buổi trưa mọi người lót dạ bằng cái bánh mì 5 xu mua dọc đường, và kết thúc lúc 6, 7 giờ tối. Công việc hàng ngày cứ đều đặn suốt gần 2 tháng trời, khi xác chết gần như vãn hết.

“Giờ ngồi nghĩ lại tôi cũng không hiểu tại sao những sinh viên đang theo học trên giảng đường lại đủ can đảm để làm việc đó, có chăng cũng chỉ vì tình thương đồng loại với nhau. Sau mỗi chuyến, dù đã mặc đồ bảo hộ, tắm rửa nhưng cái mùi hôi hám, tử khí vẫn không mất, vậy mà chúng tôi vẫn miệt mài lao vào công việc”. Ông Việt chia sẻ.

 Ông Đặng Văn Việt: “Vì tình thương đồng loại nên những sinh viên trẻ tuổi mới đủ can đảm làm công việc gom xác người chết đói”.

Ông Việt cũng cho biết, số người chết đói ông tự tay chôn cất sau gần 2 tháng trời khoảng 2000 người.

Với tình cảm thương yêu đồng loại, những sinh viên như ông Việt hay chính người Hà Nội lúc bấy giờ vẫn sẻ chia miếng cơm manh áo những mong cứu được những kiếp người khốn khổ. Có người còn tổ chức khám bệnh cho người ốm như bác sĩ Tôn Thất Tùng, Phạm Biểu Tâm, Hoàng Đình Cầu… Những gia đình hảo tâm có điều kiện thì quyên góp tiền bạc, lập hội tế bần, hay xung vào những đội tình nguyện để chung sức giúp người đói.

Trái ngược với miền Bắc, ở miền Nam thóc gạo dư thừa, dùng để đốt lò phát điện, đốt đầu xe lửa… “Những hình ảnh thảm thương về nạn chết đói của đồng bào năm 1945 và hình ảnh những ngày cùng các bạn tráng sinh đi nhặt xác chết và chôn cất 2000 đến 3000 đồng bào đã để lại trong tâm trí tôi những vết đau mãi không phai mờ”, ông Việt nói.

Lê Hoàng