Quy định của pháp luật về bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp

06/09/2020 16:24 | 3 năm trước

(LSO) - Liên quan đến vụ việc xảy ra ngày 28/8/2020 tại TP. HCM, hai đối tượng giả danh cán bộ Cục CSHS - Bộ Công an vào nhà một người dân trên địa bàn P7, quận 11, TP. HCM đọc lệnh bắt khẩn cấp (giả) đã bị tổ công tác Công an phường 7 và Đội CSHS Công an quận 11 bắt quả tang. Vậy, pháp luật quy định như thế nào về việc bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Đối tượng giả danh thiếu tá và thiếu uý Công an cùng súng, thẻ ngành giả bị bắt giữ (Nguồn: Báo Công an TP. HCM)

Bắt, giữ người là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS 2015). Điều 110 BLTTHS 2015 quy định cụ thể về giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Căn cứ bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp gồm có:

- Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

- Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

- Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp gồm có:

- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;

- Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới…

- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Trình tự bắt người khẩn cấp

Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113, Điều 115, Điều 116 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể, lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.

Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.

Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.

Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.

Người ra lệnh bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu việc thông báo cản trở quá trình điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt phải thông báo ngay.

Như vậy, dù là bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phải có lệnh bắt, có chữ ký và có dấu của người, cơ quan có thẩm quyền nêu trên, phải lập biên bản với đầy đủ thông tin người bị bắt, lý do… Đồng thời, tại thời điểm bắt người phải có sự chứng kiến của chính quyền địa phương, hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc.

Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều 110. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

THANH THANH

/quyen-yeu-cau-mo-loi-di-chung.html