Thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế của Tổ chức Lao động quốc tế ở Việt Nam

19/05/2020 05:48 | 3 năm trước

Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, trong đó có việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế về lao động là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian gần đây, Việt Nam tích cực phê chuẩn nhiều công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhằm tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ, tiên tiến để xử lý hài hòa các quan hệ lao động. Đây cũng chính là một trong những điều kiện bảo đảm cạnh tranh công bằng khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do và là điều kiện thúc đẩy quá trình hội nhập.

Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, trong đó có việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế về lao động là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.

Việt Nam đã và đang trong quá trình xem xét sửa đổi pháp luật để tương thích với các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) vừa ký kết. Đây là hai hiệp định đầu tiên Việt Nam tham gia có các điều khoản về tôn trọng và thúc đẩy các Tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO.

Tính đến tháng 6/2019, Việt Nam đã phê chuẩn 24 công ước trong tổng số 189 Tiêu chuẩn lao động của ILO, bao gồm 06 công ước về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, 18 công ước về quản trị thị trường lao động và các công ước kỹ thuật khác. Việc gia nhập các công ước này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam và mang lại cơ hội lớn hơn trong việc nội luật hóa, áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế trong hệ thống luật pháp quốc gia.

Cùng với việc gia nhập các công ước, Việt Nam cũng thể hiện sự nghiêm túc trong việc nội luật hóa các Tiêu chuẩn lao động quốc tế được đề cập trong các công ước vào hệ thống luật pháp quốc gia, tiêu biểu là việc ban hành Bộ luật Lao động năm 2019, trong đó nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động, đặc biệt là các tiêu chuẩn lao động cơ bản của ILO.

1. Tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO

Tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO là những tiêu chuẩn lao động được quốc tế công nhận, được ban hành dưới hình thức các công ước và khuyến nghị của ILO do chính các quốc gia thành viên ILO bao gồm các đối tác ba bên là Chính phủ, tổ chức đại diện của giới chủ và tổ chức đại diện của người lao động tham gia xây dựng tại Hội nghị ILO (ILC) thường niên tại Giơ - ne - vơ, Thụy Sĩ. Trong tổng số 189 tiêu chuẩn lao động của ILO, có 08 Tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản/cốt lõi bắt buộc các nước với tư cách là thành viên của ILO phải thực hiện.

Tám tiêu chuẩn lao động cốt lõi của ILO được thông qua dưới dạng 08 công ước cơ bản của ILO thuộc 04 nhóm vấn đề: (i) Nhóm các công ước về tự do lập hội và thương lượng tập thể: Công ước số 87 về tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức (Công ước số 87), Công ước số 98 về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể (Công ước số 98); (ii) Nhóm các công ước về xóa bỏ các hình thức lao động cưỡng bức: Công ước số 29 về lao động cưỡng bức và bắt buộc (Công ước số 29), Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức (Công ước số 105); (iii) Nhóm các công ước về tiền lương công bằng và chống phân biệt đối xử: Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau (Công ước số 100), Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp (Công ước số 111); (iv) Nhóm các công ước về tuổi tối thiểu được đi làm việc và xóa bỏ những hình thức lao động tồi tệ đối với trẻ em: Công ước số 138 về tuổi tối thiểu được đi làm việc (Công ước số 138), Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Công ước số 182).

Việt Nam đã phê chuẩn 06/08 công ước (bao gồm: Công ước số 98, Công ước số 100, Công ước số 111, Công ước số 138, Công ước số 182, Công ước số 29) hai công ước còn lại là Công ước số 105 và Công ước số 87 dự kiến sẽ được phê chuẩn lần lượt vào năm 2020 và 2023.

Công ước số 87 thông qua ngày 09/7/1948. Công ước đã ghi nhận nguyên tắc rằng: Người lao động và người sử dụng lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, có quyền được thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình mà không phải xin phép trước, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó. Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền: (i) Lập ra điều lệ và quy tắc, bầu đại diện, tổ chức việc điều hành các hoạt động và soạn thảo chương trình hoạt động của mình; (ii) Thành lập và gia nhập các liên đoàn, tổng liên đoàn và mọi tổ chức, liên đoàn hoặc tổng liên đoàn đó đều có quyền gia nhập các tổ chức quốc tế của người lao động và người sử dụng lao động. Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động không thể bị bất cứ một cơ quan hành chính nào buộc phải giải tán hoặc đình chỉ. Các cơ quan công quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế quyền này hoặc cản trở việc thực hiện hợp pháp quyền đó.

Tại Việt Nam, điều này có nghĩa tổ chức của người lao động tại cơ sở có thể lựa chọn gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động. Tổ chức đó sẽ chỉ được hoạt động sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo một quy trình minh bạch và được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tổ chức của người lao động, sau khi hoàn tất thủ tục nói trên, sẽ có một số quyền tự chủ nhất định phù hợp với quy định của ILO và pháp luật Việt Nam.

Mục đích hoạt động của tổ chức đại diện người lao động phải là để đại diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích của người lao động tại doanh nghiệp mà họ làm việc thông qua các hình thức được quy định trong pháp luật bao gồm đối thoại, thương lượng tập thể, đình công và các hành động tập thể khác trong quan hệ lao động. Các tổ chức của người lao động không được phép tiến hành bất cứ hoạt động nào có khả năng xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội cũng như không được tham gia bất cứ hoạt động nào ngoài tôn chỉ mục đích phù hợp với quy định của ILO và đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Công ước số 98 được thông qua ngày 01/7/1949. Theo Điều 1 Công ước này, người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại việc làm của họ. Hiện nay, vấn đề đại diện, bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích của người lao động, không bị người sử dụng lao động can thiệp và phân biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền lợi của người lao động cũng được đề cập và quy định rõ ràng. Đồng thời phải đề cao nghĩa vụ thương lượng, thiện chí của người sử dụng lao động khi tiến hành thương lượng tập thể với tổ chức của người lao động về tiền lương và các điều kiện lao động khác cho người lao động.

Ngày 14/6/2019, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 98 với các nội dung cơ bản nhằm đảm bảo thương lượng tập thể giữa người lao động và người sử dụng lao động có thể diễn ra một cách hiệu quả, đó là: (i) Bảo vệ người lao động và cán bộ công đoàn không bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc; (ii) Bảo đảm cho các tổ chức đại diện của người lao động và người sử dụng lao động không bị can thiệp hoặc chi phối từ bên còn lại; (iii) Những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện, thiện chí.

Công ước số 29 được thông qua ngày 28/6/1930, gồm 33 điều quy định các quốc gia thành viên cam kết phải có chính sách quốc gia hủy bỏ việc sử dụng lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc dưới mọi hình thức trong thời gian ngắn nhất.

Khoản 1 Điều 2 Công ước số 29 định nghĩa: Lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc là mọi công việc hoặc dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dưới sự đe doạ của một hình phạt nào đó và bản thân người đó không tự nguyện làm.

Công ước số 29 cũng quy định các trường hợp ngoại lệ của tình trạng lao động cưỡng bức, bao gồm các công việc hoặc dịch vụ: (i) Có tính chất quân sự thuần túy; hoặc (ii) là nghĩa vụ công dân bình thường; hoặc (iii) buộc phải thực hiện do quyết định của Tòa án đặt dưới sự giám sát và kiểm tra của các cơ quan công quyền; hoặc (iv) buộc phải làm do tình trạng khẩn cấp như chiến tranh, động đất, dịch bệnh…; hoặc (v) là những công việc nhỏ phục vụ cộng đồng.

Công ước số 105 được thông qua ngày 25/06/1957 đã ghi nhận rằng, mọi nước thành viên của ILO phê chuẩn Công ước này cam kết bãi bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc và cam kết không sử dụng bất kỳ hình thức nào của loại lao động đó (Điều 1). Công ước số 105 nhấn mạnh chi tiết rằng, lao động cưỡng bức không bao giờ được áp dụng như một biện pháp cưỡng chế hoặc giáo dục bắt buộc; như một sự trừng phạt vì bày tỏ quan điểm chính trị hoặc tham gia đình công; như một hình thức kỷ luật lao động; như một sự phân biệt đối xử về chủng tộc, xã hội, dân tộc hoặc tôn giáo; hoặc như một phương thức huy động nhân công vì mục đích phát triển kinh tế.

Công ước số 105 là công ước cùng cặp với Công ước số 29 trong nhóm tiêu chuẩn quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức (Việt Nam đã gia nhập Công ước số 29 năm 2007). Tính đến ngày 19/02/2020, trên thế giới đã có 173 trên tổng số 187 quốc gia thành viên của ILO tham gia Công ước này.

Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc gia nhập Công ước số 105 là rất cần thiết và có ý nghĩa trên tất cả các mặt chính trị, pháp lý và kinh tế - xã hội; phù hợp với xu thế tiến bộ chung của thế giới, thể hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến lao động của Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Ngày 07/02/2020, Bộ Lao động -  Thương binh và Xã hội đã đệ trình lên Chính phủ hồ sơ về việc xem xét gia nhập Công ước số 105[1]. Dự kiến hồ sơ này sẽ được Chính phủ trình lên Chủ tịch nước để trình sang Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 4/2020 và trình Quốc hội vào tháng 5/2020.

Công ước số 100 thông qua ngày 29/6/1951. Công ước quy định mỗi thành viên, bằng những biện pháp thích hợp với các phương pháp hiện hành trong việc ấn định mức tiền công, phải khuyến khích và trong chừng mực phù hợp với các phương pháp ấy, bảo đảm việc áp dụng cho mọi người lao động nguyên tắc trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ đối với công việc có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc này có thể được áp dụng bằng pháp luật hoặc quy định quốc gia, bằng cơ chế ấn định tiền lương đã được thiết lập hay công nhận về mặt pháp lý, bằng thỏa ước tập thể giữa người sử dụng lao động và người lao động hoặc bằng cách kết hợp những biện pháp đó. Việt Nam phê chuẩn Công ước này ngày 7/10/1997.

Công ước số 111 được thông qua ngày 25/6/1958. Công ước quy định, thành viên của Công ước này cam kết tuyên bố và theo đuổi một chính sách quốc gia, bằng những phương pháp phù hợp với hoàn cảnh và thực tiễn quốc gia, nhằm thúc đẩy bình đẳng về cơ hội và về đối xử trong việc làm và nghề nghiệp để xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử về mặt này. Mỗi thành viên Công ước phải có các biện pháp phù hợp với hoàn cảnh và thực tiễn quốc gia để: (i) Đạt được sự hợp tác của các tổ chức của người sử dụng lao động, của người lao động và các tổ chức thích hợp khác nhằm đẩy mạnh việc chấp nhận và thực hiện chính sách này; (ii) Ban hành pháp luật và thúc đẩy các chương trình giáo dục nhằm đảm bảo việc chấp nhận và thực hiện chính sách này; (iii) Hủy bỏ mọi quy định pháp luật và sửa đổi mọi hướng dẫn hoặc thủ tục hành chính không phù hợp với chính sách đó; (iv) Theo đuổi chính sách việc làm với sự kiểm soát trực tiếp của một cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia; (v) Bảo đảm sự tuân thủ chính sách trong hoạt động của các tổ chức hướng nghiệp, dạy nghề và sắp xếp việc làm theo chỉ đạo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp quốc gia; (vi) Thể hiện trong báo cáo hàng năm của mình về việc áp dụng Công ước này những biện pháp đã sử dụng để theo đuổi chính sách đó và kết quả đã đạt được. Việt Nam phê chuẩn Công ước số 111 năm 1997

Công ước số 138 được thông qua ngày 26/7/1973. Điều 1 Công ước số 138 ghi rõ: “Mọi nước thành viên chịu hiệu lực của Công ước này cam kết theo đuổi một chính sách quốc gia, nhằm bảo đảm thật sự việc bãi bỏ lao động trẻ em và nâng dần tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được lao động tới độ tuổi mà các thiếu niên có thể phát triển đầy đủ nhất về thể lực và trí lực”. Khoản 1 Điều 2 Công ước này quy định: Mọi thành viên phê chuẩn Công ước này, trong bản tuyên bố kèm theo văn bản phê chuẩn, sẽ phải ghi rõ tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được đi lao động trên lãnh thổ của mình và trên các phương tiện giao thông có đăng kiểm trên lãnh thổ của mình; theo quy định tại các Điều từ 4 đến 8 Công ước này, không một ai ở tuổi dưới mức tối thiểu đó được đi làm việc hoặc được lao động trong bất cứ nghề nào.

Xét thấy các nội dung của Công ước phù hợp với lợi ích chung của nhân loại và phù hợp với lợi ích của Việt Nam, nên ngày 24/6/2003 Chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này.

Công ước số 182 được thông qua ngày 17/6/1999, mỗi một thành viên phê chuẩn Công ước này sẽ áp dụng những biện pháp tức thời và hữu hiệu để đảm bảo việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như một vấn đề khẩn cấp. Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ được áp dụng cho tất cả những ai dưới 18 tuổi.

Công ước quy định các hình thức lao động bị coi là tồi tệ nhất đối với trẻ em phải xóa bỏ là: (i) Tất cả những hình thức nô lệ hay những hành động tương tự như nô lệ, như buôn bán trẻ em, gán nợ, nông nô hoặc lao động cưỡng bức hay bắt buộc, bao gồm cả việc tuyển mộ trẻ em cưỡng bức hoặc bắt buộc để sử dụng trong xung đột vũ trang; (ii) Việc sử dụng, mua bán hay chào mời trẻ em cho mục đích mại dâm, cho việc sản xuất sách báo hay các chương trình khiêu dâm; (iii) Việc sử dụng mua bán hay chào mời trẻ em cho các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt cho việc sản xuất và buôn lậu ma tuý như đã được định nghĩa trong các hiệp ước quốc tế liên quan; (iv) Những công việc có khả năng làm hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay đạo đức của trẻ em, do bản chất của công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc.

2. Tình hình thực hiện các Tiêu chuẩn lao động quốc tế tại Việt Nam

Việc phê chuẩn hay gia nhập các công ước quốc tế là công việc quan trọng, cần có sự cân nhắc thấu đáo để phù hợp với điều kiện, đặc điểm và vì lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, Điều 2 Tuyên bố 1998 của ILO đã khẳng định rằng, các quốc gia thành viên ILO, dù đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn 08 công ước cơ bản đều có nghĩa vụ phải tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện 08 công ước này một cách thiện chí. Đây là sự khác biệt cơ bản về mặt nghĩa vụ tuân thủ giữa 08 công ước cơ bản với các công ước khác của ILO. Như vậy, ngoài việc phải thực hiện đầy đủ nội dung của 06 công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam đã phê chuẩn, thì Việt Nam với tư cách là thành viên của ILO có nghĩa vụ phải tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện một cách thiện chí đối với 02 công ước cơ bản còn lại của ILO mà Việt Nam chưa phê chuẩn. Hơn nữa, các Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTTPP) TPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đều có các quy định về tiêu chuẩn lao động, đòi hỏi Việt Nam phải sửa đổi pháp luật cho phù hợp và thực hiện trong thực tiễn, để được hưởng lợi ích thương mại trong các hiệp định. Bên cạnh cơ chế giám sát của ILO, các hiệp định này đều có các cơ chế giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế ở các quốc gia thành viên.

Việt Nam tham gia trở lại tư cách thành viên của ILO từ năm 1992. Từ đó đến nay, Việt Nam tích cực thực hiện các Tiêu chuẩn lao động quốc tế, hoàn thiện thể chế quản trị thị trường lao động… Riêng trong năm 2019, Việt Nam đã phê chuẩn 03 công ước của ILO, bao gồm: Công ước số 88 về tổ chức dịch vụ việc làm, Công ước số 159 về tái thích ứng việc làm cho người khuyết tật, đặc biệt là Công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể (01 trong 08 công ước cơ bản của ILO). Cùng với việc gia nhập các công ước, Việt Nam cũng thể hiện sự nghiêm túc trong việc nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế được đề cập trong các công ước vào trong hệ thống luật pháp quốc gia.

Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thể hiện cam kết của mình trong việc tiếp tục gia nhập và thực hiện các tiêu chuẩn lao động của ILO thông qua nhiều văn kiện, kế hoạch, chương trình hành động như: Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (Nghị quyết số 06-NQ/TW); Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 25/4/2017 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW; Nghị quyết số 121/QĐ-TTg  ngày 24/ 01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Quyết định số 2528/QĐ-TTg ngày 31/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện và đề xuất gia nhập các công ước của Liên hợp quốc và của Tổ chức Lao động quốc tế trong lĩnh vực lao động - xã hội giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày 20/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược hội nhập quốc tế về lao động - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp và Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Theo các văn kiện và các chương trình, kế hoạch hành động nêu trên, Việt Nam cam kết sửa đổi hệ thống luật pháp (trong đó có Bộ luật Lao động) và tiếp tục nghiên cứu đề xuất gia nhập các công ước của ILO, trong đó có 02 công ước cơ bản là Công ước 105 về lao động cưỡng bức (dự kiến 2020), Công ước 87 về tự do liên kết (dự kiến 2023) và 06 công ước kỹ thuật khác về tiền lương và một số nhóm lao động yếu thế.

Để tiếp tục nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO, ngày 20/11/2019, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) (sau đây gọi là Bộ luật Lao động năm 2019). Những chính sách lao động của Nhà nước ta được cụ thể hóa trong nội dung của Bộ luật Lao động năm 2019 được các chuyên gia của ILO đánh giá cao. Theo Tiến sĩ Chang - Hee Lee, Giám đốc ILO tại Việt Nam, việc ban hành Bộ luật Lao động năm 2019 đã đưa khuôn khổ pháp luật Việt Nam tiệm cận hơn các tiêu chuẩn lao động quốc tế; tạo khung pháp luật hoàn thiện hơn cho quan hệ việc làm, điều kiện lao động và chức năng đại diện của người sử dụng lao động và người lao động. Bộ luật Lao động sửa đổi lần này chú trọng hơn tới việc thực hiện thương lượng tập thể tự nguyện, một công cụ cần thiết đối với một nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình hội nhập toàn cầu sâu rộng. Cùng với quyền tự do hiệp hội, xóa bỏ phân biệt đối xử, lao động trẻ em và lao động cưỡng bức là bốn nguyên tắc được đặt ra trong 08 Công ước cơ bản của ILO trong khuôn khổ Tuyên bố 1998. Giám đốc ILO tại Việt Nam nhận định, Bộ luật Lao động năm 2019 đóng vai trò quan trọng, mở đường cho việc thực hiện một cách đầy đủ Tuyên bố 1998 của ILO, bởi Bộ luật tạo khung pháp luật tốt hơn về việc làm và quan hệ lao động, góp phần đáng kể để đạt được tiến bộ về việc làm thỏa đáng cho mọi người lao động, cả nam và nữ, giúp tăng trưởng công bằng và bền vững. Cụ thể:

Một là, về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể: Tiến bộ lớn nhất đạt được trong việc tiệm cận hơn với các Tiêu chuẩn Lao động Quốc tế của Bộ luật Lao động năm 2019 là khả năng người lao động tại doanh nghiệp được quyền thành lập hay tham gia một tổ chức đại diện do họ lựa chọn, không nhất thiết phải là thành viên của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.

Giám đốc ILO tại Việt Nam giải thích: “Tự do hiệp hội là một quyền cơ bản được nêu trong Tuyên bố về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động năm 1998 của ILO. Tự do hiệp hội giúp cải thiện quá trình thương lượng tập thể, cho phép người lao động được hưởng lợi ích công bằng hơn và cho phép doanh nghiệp thỏa thuận những cải thiện năng suất cần thiết”.

Quy định thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp không thuộc tổ chức Công đoàn Việt Nam nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động, phù hợp với các công ước của ILO, các cam kết quốc tế khác và tạo thuận lợi trong quá trình hội nhập quốc tế.

Hai là, về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong lao động: Điểm tiến bộ của Bộ luật Lao động năm 2019 cũng được thể hiện ở những định nghĩa mới về phân biệt đối xử trong lao động và quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Theo đó, phân biệt đối xử trong lao động là hành vi phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiên dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, dân tộc, giới tính, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình hoặc trên cơ sở tình trạng nhiễm HIV hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có tác động làm ảnh hưởng đến bình đẳng về cơ hội việc làm hoặc nghề nghiệp. Việc phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiên xuất phát từ yêu cầu đặc thù của công việc và các hành vi duy trì, bảo vệ việc làm cho người lao động dễ bị tổn thương thì không bị xem là phân biệt đối xử (khoản 8 Điều 3). Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động (khoản 9 Điều 3).

Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép người lao động được đơn phương nghỉ việc với điều kiện có thông báo trước một cách phù hợp. Cụ thể Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do mà chỉ cần báo trước 30 ngày với hợp đồng xác định thời hạn và 45 ngày với hợp đồng không xác định thời hạn.

Thậm chí, trong một số trường hợp, người lao động còn được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước, như: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận; không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động; bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc; lao động nữ mang thai phải nghỉ việc; đủ tuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động. Đồng thời, người lao động cũng được quyền yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của mình khi chấm dứt hợp đồng lao động; các chi phí của việc cung cấp do người sử dụng lao động chi trả...

Ba là, về xóa bỏ lao động trẻ em: Những quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về lao động trẻ em cơ bản đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan, cụ thể là các tiêu chuẩn theo Công ước của Liên hợp quốc tế quyền trẻ em (CRC), Công ước số 138 về tuổi tối thiểu được đi làm việc và Công ước số 182 về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

Bốn là, về xóa bỏ lao động cưỡng bức: Bộ luật Lao động năm 2019 đưa ra hướng dẫn chi tiết hơn về cưỡng bức lao động và lao động chưa thành niên, giúp người sử dụng lao động hiểu rõ hơn những gì được pháp luật cho phép và không cho phép, cũng như và giúp tăng cường năng lực của thanh tra lao động trong việc tư vấn và thực thi pháp luật trong những lĩnh vực này.

Những nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập lao động quốc tế nhận được những đánh giá tích cực từ cộng đồng quốc tế. Họ cho rằng, Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong việc phê chuẩn các công ước cơ bản của ILO cũng như việc thông qua Bộ Luật Lao động năm 2019 thể hiện thiện chí và những nỗ lực có hiệu quả của Việt Nam.

3. Một số khuyến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả các tiêu chuẩn lao động quốc tế trong thời gian tới

Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã nội luật hóa các công ước cơ bản mà Việt Nam đã phê chuẩn. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm trong pháp luật Việt Nam chưa tương thích và việc thực hiện trong thực tiễn chưa thực sự hiệu quả cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và tăng cường thực thi cho phù hợp với Tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp, xóa bỏ lao động trẻ em, xóa bỏ lao động cưỡng bức.

Việt Nam từ trước đến nay luôn là nước có hệ thống pháp luật rất rộng trên giấy tờ. Tuy nhiên, khi càng đưa nhiều vào luật trong bối cảnh các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng hóa, thì lại càng khó để mọi người trong nền kinh tế tuân thủ theo các tiêu chuẩn được quy định trong pháp luật. Vì thế, Việt Nam cần thiết phải thực hiện một sự chuyển dịch quan trọng hướng tới chú trọng hơn vào tầm quan trọng của hợp đồng lao động, để cho phép người sử dụng lao động và người lao động, cả ở góc độ cá nhân và tập thể, có thể thương lượng về điều kiện làm việc phù hợp nhất với tình hình của họ. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần phải thay đổi, nhưng sự thay đổi đó không phải là ban hành thêm nhiều quy định trên giấy tờ, mà phải đảm bảo những nội dung được quy định đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động.

Việt Nam cần tiếp tục những vấn đề liên quan đến thúc đẩy bình đẳng. Có thể nhận thấy, ngày nay bất bình đẳng gia tăng ở mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là bất bình đẳng thu nhập và bất bình đẳng về cơ hội. Việt Nam là một xã hội đang già hóa, vì vậy, một trong những vấn đề đặt ra là phải tăng năng suất, phải nâng cao trình độ kỹ năng để tận dụng tốt nhất tiềm năng về năng suất lao động của mỗi người. Điều đó có nghĩa là cần thêm nhiều người phụ nữ có thể hiện thực hóa tiềm năng của mình trên thị trường lao động và được đền đáp xứng đáng. Nhưng điều này cũng có nghĩa là nhiều điều khoản theo cách tiếp cận tính bảo vệ trong Bộ luật Lao động cần tiếp tục được hoàn thiện, đó là: Trợ cấp thai sản cần được củng cố, khả năng tiếp cận với dịch vụ giúp việc gia đình với giá hợp lý, bảo vệ chống quấy rối tình dục và mở ra nhiều hơn cơ hội cho phụ nữ trong các ngành nghề và hoạt động kinh tế mà trước đây không cho phép phụ nữ tham gia vì mục đích bảo vệ.

Chỉ ra một số hạn chế trong việc nhận thức về các Tiêu chuẩn lao động quốc tế của Việt Nam, bà Andrea Prince - Cố vấn trưởng của Dự án Khuôn khổ lao động mới của ILO cho rằng, Việt Nam hiện chưa có hệ thống giám sát các tiêu chuẩn lao động quốc tế ở cấp quốc gia. Bên cạnh đó, việc phối kết hợp giữa các đối tác ba bên trong áp dụng và báo cáo tình hình áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế vẫn còn mang tính hình thức. Theo bà Andrea Prince, các quốc gia cần dần thay đổi nhận thức về việc áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế, bởi lẽ việc phê chuẩn các Công ước sẽ thiết lập thỏa thuận quốc tế về các quyền lao động cơ bản; đặt ra nền tảng tối thiểu cho cạnh tranh công bằng ở cấp quốc gia và quốc tế; tạo một khuôn khổ quốc tế nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế toàn cầu mang lại lợi ích cho tất cả mọi người; bảo đảm sức khỏe, phúc lợi và tiếng nói của người lao động, tạo điều kiện để người lao động đòi hỏi các nhu cầu chính đáng khác.

Bộ luật Lao động năm 2019 đóng vai trò quan trọng, mở đường cho việc thực hiện một cách đầy đủ Tuyên bố 1998 của ILO, bởi bộ luật tạo khung pháp luật tốt hơn về việc làm và quan hệ lao động, giúp tăng trưởng công bằng và bền vững, trong bối cảnh Việt Nam đang phấn đấu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Mặc dù vậy, cũng như ở nhiều nước khác, Bộ luật này vẫn còn có những khoảng cách và nội dung có thể tiếp tục cải thiện.

Bên cạnh đó, vẫn còn có khoảng cách trong việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc liên quan đến chống phân biệt đối xử và bình đẳng giới trong lao động. Ngoài ra, quyền tự do hiệp hội trong bộ luật hiện chỉ áp dụng đối với người lao động trong doanh nghiệp, nên sẽ cần phải được mở rộng phạm vi trong những năm tới đây, để song hành với những nỗ lực của Chính phủ hướng tới phê chuẩn Công ước số 87 của ILO vào năm 2023. Tuy nhiên, vấn đề cần chú trọng trước mắt là việc giải thích các điều khoản mới thông qua việc ban hành các nghị định hướng dẫn và thiết lập các thiết chế thực chất để áp dụng và triển khai.

Nhằm tiếp tục thúc đẩy quá trình tiếp tục hoàn thiện pháp luật lao động trong nước, đồng thời thực thi có hiệu quả các Tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO, góp phần vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, trong thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện một số công việc sau:

Một là, tiếp tục nghiên cứu, nội luật hóa Tiêu chuẩn lao động quốc tế của các công ước vào pháp luật trong nước, đặc biệt là 06 công ước cơ bản mà Việt Nam đã phê chuẩn.

Hai là, triển khai thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ để đảm bảo việc thi hành các quy định của các công ước đã phê chuẩn và pháp luật trong nước tương ứng; tiến hành áp dụng trực tiếp quy định của các công ước đã cụ thể theo quy định của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế, mà không cần chờ việc nội luật hóa vào pháp luật trong nước.

Ba là, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của công ước đến cơ quan, tổ chức, người dân và doanh nghiệp.

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu các công ước cơ bản còn lại chưa phê chuẩn như Công ước 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc, Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức để phê chuẩn vào thời điểm thích hợp.

BÙI HUYỀN/TC DC&PL

/giam-50-le-phi-truoc-ba-khi-mua-xe-san-xuat-trong-nuoc.html