(LSVN) - Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013. Bài viết sau đây đánh giá về thực trạng triển khai thực hiện Luật PBGDPL, bao gồm những thành tựu, kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Luật trong thực tế.
Thực trạng triển khai thực hiện Luật PBGDPL
Từ góc độ đánh giá khái quát cho thấy việc triển khai thực hiện Luật PBGDPL đạt được một số thành tựu, kết quả nổi bật sau đây:
Một là, các cấp, các ngành đã tích cực quán triệt, phổ biến và triển khai thực hiện Luật PBGDPL; các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật PBGDPL được ban hành đầy đủ, kịp thời, bao gồm 03 nghị định của Chính phủ, 07 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 01 thông tư liên tịch của liên Bộ Tài chính - Tư pháp, 09 thông tư và 02 quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, điểm nhấn là Chương trình PBGDPL giai đoạn 2017-2021 với 11 Đề án về PBGDPL cho các nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực đặc thù[1].
Hai là, việc cung cấp thông tin về pháp luật cho công dân đã được coi trọng. Hoạt động công bố luật, pháp lệnh, nghị quyết; ra thông cáo báo chí về văn bản pháp luật và đăng tải công khai văn bản pháp luật chuyên ngành trên cổng/trang thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước, các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng, mạng lưới thông tin cơ sở được thực hiện khá nghiêm túc, kịp thời, ngày càng đi vào nền nếp. Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về pháp luật được Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng, ngày càng hoàn thiện; đăng tải hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành, cả văn bản sửa đổi, bổ sung, hợp nhất; bảo đảm tính công khai, minh bạch và khá đầy đủ để mọi người dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng miễn phí.
Ba là, các hoạt động giáo dục, đào tạo chuyên ngành luật, nghề luật; giáo dục pháp luật trong nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục pháp luật chuyên biệt cho các đối tượng đặc biệt được quan tâm, chú trọng hơn, không chỉ tăng về số lượng mà còn bảo đảm về chất lượng. Nội dung, chương trình trong các cấp học và trình độ đào tạo, hệ thống giáo trình, tài liệu, sách tham khảo được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung và từng bước được chuẩn hóa, ngày càng đa dạng, phong phú và sát với thực tiễn hơn. Đội ngũ nhà giáo giảng dạy pháp luật từng bước được chuẩn hóa, thường xuyên được cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng mới. Hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo bước đầu được coi trọng đã góp phần quan trọng vào việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhân cách con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn với giáo dục ý thức tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật và xây dựng văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội.
Đặc biệt, kể từ năm 2017 môn giáo dục công dân được xác định là một môn thi tốt nghiệp trung học phổ thông và là một trong những môn học trong tổ hợp xét tuyển vào một số trường đại học, cao đẳng đã càng khẳng định sự cần thiết, vai trò, tầm quan trọng, tính đúng hướng của hoạt động này thời gian qua.
Bốn là, xác chủ thể đã nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về trách nhiệm được giao trong Luật PBGDPL, nhất là các cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức và các đại biểu dân cử. Tổ chức bộ máy cán bộ và đội ngũ người làm công tác PBGDPL, nhất là đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật được củng cố, kiện toàn; chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong triển khai Luật PBGDPL tại cơ sở. Hoạt động của hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp và tổ thư ký giúp việc hội đồng thiết thực, hiệu quả hơn, bám sát nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhất là trong chỉ đạo, hướng dẫn, xây dựng chương trình, kế hoạch; định hướng nội dung, hình thức, chủ đề, điều phối các hoạt động và chia sẻ các nguồn lực. Đã có sự gắn kết chặt chẽ hơn trong triển khai PBGDPL tại địa bàn cơ sở giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, mạng lưới các tổ hòa giải ở cơ sở và các hoạt động thực tiễn pháp lý của các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực pháp luật, nhất là các tổ chức hành nghề luật sư.
Năm là, nội dung PBGDPL từng bước được đổi mới, bên cạnh quy định của pháp luật thực định đã bước đầu quan tâm đến giáo dục ý thức pháp luật, gương người tốt việc tốt trong tuân thủ, chấp hành pháp luật và một số điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên. Tài liệu tuyên truyền, phổ biến đa dạng, phong phú, sát hơn với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, nhất là các ấn phẩm tuyên truyền, các câu chuyện pháp luật, tình huống pháp lý. Tài liệu công bố luật, pháp lệnh, các đề cương tuyên truyền, phổ biến luật, pháp lệnh, thông cáo báo chí về văn bản được biên soạn kịp thời, chất lượng được nâng lên, chú trọng hơn đến mục tiêu chính sách, điểm mới, sửa đổi, bổ sung.
Sáu là, hình thức PBGDPL phong phú, đa dạng và sát thực hơn với từng lĩnh vực, địa bàn, nhóm đối tượng với nhiều mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả được xây dựng và nhân rộng như: mô hình Ngày Pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong cả nước, từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phương; hoạt động tuyên truyền miệng, tổ chức hội nghị quán triệt, phổ biến văn bản mới… Hoạt động PBGDPL cho nhóm đối tượng đặc thù đã được quan tâm hơn, gắn với việc triển khai thực hiện các chương trình, đề án và các hoạt động giáo dục chuyên biệt. Các hoạt động PBGDPL, trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em, nạn nhân bạo lực gia đình, người lao động trong các doanh nghiệp được quan tâm đẩy mạnh.
Bảy là, đã từng bước hình thành trong đảng viên, cán bộ ý thức, thói quen chủ động, tự giác nghiên cứu, học tập, tìm hiểu và nắm vững quy định của pháp luật, tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong thực thi công vụ; tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn người dân thực thi pháp luật. Việc học tập, cập nhật kiến thức pháp luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung trở thành nhiệm vụ thường xuyên, hằng năm và thuộc chế độ học tập bắt buộc của mỗi đảng viên, cán bộ. Đặc biệt, người dân đã tích cực, chủ động hơn trong tự học tập, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật; bước đầu hình thành thói quen đối chiếu giữa hành vi với các quy định của pháp luật khi tham gia các quan hệ xã hội. Tình hình vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể do thiếu hiểu biết pháp luật có xu hướng giảm. Người dân đã biết cách sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp. Ý thức tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong cán bộ và nhân dân được nâng lên, góp phần tích cực vào ổn định tình hình an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Tám là, các nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL, nhất là kinh phí bảo đảm triển khai các hoạt động được quan tâm, chú trọng hơn. Chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL bước đầu được triển khai thực hiện, nhất là các hoạt động hỗ trợ, tài trợ của các doanh nghiệp, cá nhân qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, qua hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam hằng năm. Đã phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong tham gia tuyên truyền, phổ biến, vận động thành viên, hội viên tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; thu hút, huy động được các cơ quan thông tin, truyền thông đại chúng, các cơ quan báo chí, tổ chức hành nghề luật tham gia PBGDPL, nhất là các tổ chức hành nghề luật sư và các luật sư; Đội ngũ thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chức nhà nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc triển khai hoạt động thực thi công vụ đã cung cấp các thông tin về pháp luật, hướng dẫn, giải pháp các vướng mắc về pháp luật. Tòa án nhân dân đã tăng cường các hoạt động xét xử lưu động để qua đó tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đã đạt được là chủ yếu, việc triển khai thực hiện Luật PBGDPL đã bộc bộ một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, nội hàm khái niệm PBGDPL chưa được nhận thức đầy đủ, cả từ góc độ lý luận, thực tiễn và pháp lý nên còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất. Do chưa làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa thông tin pháp luật với giáo dục pháp luật, truyền thông chính sách, tuyên truyền chính trị nên các vấn đề này vẫn nằm chung trong cơ chế điều chỉnh của Luật PBGDPL và chưa có sự phân định rõ sự khác biệt về nội dung, mức độ và phạm vi điều chỉnh; thậm chí vẫn còn có sự trùng lắp trong điều chỉnh pháp luật giữa Luật PBGDPL với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (liên quan đến công bố luật, pháp lệnh, Công báo, truyền thông chính sách); Luật Tiếp cận thông tin (về quyền được thông tin của công dân và các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền); Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp (trong đó có giáo dục pháp luật).
Thứ hai, tuy có nhiều cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật, nguồn tài liệu PBGDPL được triển khai xây dựng, quản lý, khai thác nhưng giữa chúng còn thiếu sự gắn kết, liên thông và chia sẻ thông tin. Vì thế, đã dẫn đến sự trùng lắp về hoạt động, gây lãng phí về thời gian, công sức, nguồn lực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL chưa tương xứng với sự phát triển mạnh mẽ của công tác này trong cuộc cách mạng 4.0.
Một số văn bản được cập nhật chậm hoặc không được cập nhật trong hệ cơ sở dữ liệu hoặc không rõ hiệu lực. Việc truy cập, khai thác, sử dụng hệ cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật chưa tiện dụng, nhất là trong tra cứu, tìm kiếm các quy phạm pháp luật (QPPL) đang có hiệu lực tại một thời điểm, cho sự kiện, tình huống cụ thể và xử lý xung đột pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo. Hệ cơ sở dữ liệu văn bản QPPL do các đơn vị ngoài Nhà nước xây dựng tuy khá đầy đủ và tiện dụng trong tra cứu hiệu lực và liên kết lẫn nhau giữa các văn bản nhưng có thu phí, thông tin pháp luật lại không chính thức nên không phải ai cũng dễ dàng tiếp cận.
Đối với người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn hoặc không có khả năng sử dụng công nghệ thông tin hoặc có bất đồng về ngôn ngữ, không hiểu biết tiếng phổ thông thì không phải lúc nào cũng dễ dàng tiếp cận, tìm kiếm thông tin trong khi tủ sách pháp luật và mạng lưới thông tin ở cơ sở còn thiếu thốn, lạc hậu; một số tài liệu PBGDPL trích dẫn không rõ nguồn nên không rõ về giá trị và hiệu lực áp dụng; mạng lưới truyền thanh cơ sở thiếu nguồn tài liệu để cung cấp thông tin về pháp luật đến với người dân.
Thứ ba, hoạt động giáo dục pháp luật trong nhà trường chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cả về nhân cách, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo còn nặng về lý thuyết, khô cứng khi dựa trên quy định của pháp luật thực định, chưa gắn kết lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành và chậm được rà soát, cập nhật, bổ sung các nội dung kiến thức, quy định mới; chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục gương người tốt, việc tốt, ý thức và thói quen tự giác cập nhật thông tin pháp luật, học tập, tìm hiểu pháp luật, tuân thủ và chấp hành pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng xử sự phù hợp với pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.
Nguồn tài liệu, sách tham khảo thiếu thốn, chưa phù hợp với từng đối tượng, cấp học và trình độ đào tạo. Đội ngũ giáo viên dạy môn đạo đức, giáo dục công dân, pháp luật đại cương ở nhiều nơi còn chưa được đào tạo chuẩn về kiến thức pháp luật trong khi việc cập nhật kiến thức, quy định mới và kỹ năng chưa được thường xuyên, liên tục. Việc đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo pháp luật chưa dựa trên tiêu chí cụ thể có thể lượng hóa ở mức độ tối đa. Phương pháp dạy và học pháp luật chậm được đổi mới, thiếu linh hoạt, sáng tạo và chưa gắn với các tình huống, vụ việc, sự kiện cụ thể, gắn với thực tiễn cuộc sống của người dân nên chưa thu hẹp được khoảng cách giữa quy định của pháp luật với thực tiễn đời sống, chưa sát với đặc thù, tính chất và nhu cầu và chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học.
Thứ tư, cách thức tiếp cận, triển khai các hoạt động PBGDPL chuyên biệt, qua hoạt động thực tiễn pháp lý của các chủ thể vẫn nặng tính truyền thống, chủ yếu xuất phát từ ý chí, mong muốn từ phía cơ quan quản lý nhà nước áp đặt lên xã hội để phục vụ nhu cầu quản lý xã hội mà chưa xuất phát từ nhu cầu, mong muốn của người dân, gắn với quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong tình huống, sự kiện pháp lý cụ thể. Tài liệu, đề cương PBGDPL biên soạn chậm, chất lượng chưa sâu; hình thức chưa đa dạng và phong phú; chủ yếu tập trung vào giới thiệu sự cần thiết phải ban hành, quan điểm xây dựng, mục tiêu chính sách lớn của văn bản và một số nội dung cơ bản, nhất là điểm mới, sửa đổi, bổ sung mang tính định hướng, dành cho báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, cán bộ, công chức thi hành văn bản mà chưa gắn với các hành vi bị nghiêm cấm, biện pháp và chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, thậm chí còn thiếu sự phân hóa về nội dung và phương pháp dựa trên đặc điểm, tính chất của từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực; chưa gắn kết và đặt trong sự điều chỉnh chung của hệ thống pháp luật nên rất khó cho người dân trong áp dụng, nhất là khi người dân chưa có đủ kỹ năng nghiên cứu, cập nhật các quy định pháp luật và vận dụng, sử dụng pháp luật.
Thứ năm, các hoạt động PBGDPL được triển khai theo phong trào và nặng tính hình thức vẫn còn ở một số nơi hoặc mới chỉ tập trung vào một số chiến dịch, thời điểm nhất định, chưa thường xuyên, liên tục và rộng khắp; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều. Sau nhiều năm triển khai công tác PBGDPL nhưng đến nay vẫn chưa đạt được mục tiêu tạo được chuyển biến căn bản, toàn diện và bền vững về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, nhất là trong ý thức tự giác, chủ động và tích cực học tập, tìm hiểu pháp luật trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Còn một khoảng cách rất lớn giữa mục tiêu đề ra trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy định của Luật PBGDPL với khả năng hiện thực hóa trong thực tiễn.
Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp, cả về phạm vi, tính chất, mức độ, nổi lên là tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực học đường, ô nhiễm mỗi trường, tham nhũng, lãng phí. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, thiếu tu dưỡng rèn luyện, chưa nêu gương, thậm chí còn vi phạm pháp luật, ngay cả trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, các cơ quan bảo vệ pháp luật và đội ngũ cán bộ được giao thi hành pháp luật, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
Thứ sáu, nguồn lực đầu tư, bảo đảm cho công tác PBGDPL phân bố chưa đồng đều giữa các địa phương và chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là kinh phí bảo đảm triển khai thực hiện các chương trình, đề án về PBGDPL và PBGDPL cho nhóm các đối tượng đặc thù, tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều thông tin, tài liệu PBGDPL không chính thức, thiếu kiểm duyệt về nội dung, hình thức thể hiện, nhất là thông tin trên internet, mạng xã hội gây khó khăn cho người dân trong tiếp cận, tìm hiểu và sử dụng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế nêu trên, nhưng chủ yếu là:
Về khách quan, bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến khó lường; xuất phát điểm của nước ta thấp trong khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và nhiều địa phương còn nhiều khó khăn. Hoạt động PBGDPL rất đặc thù nên khó thu hút, huy động các nguồn lực xã hội tham gia theo chủ trương xã hội hóa. Hệ thống pháp luật rất phức tạp, đang trong quá trình hoàn thiện và thiếu ổn định. Một số chính sách, quy định mới chưa nhận được sự đồng thuận cao từ xã hội trong thi hành; nhu cầu, kỳ vọng và đòi hỏi của xã hội đối với công tác PBGDPL rất lớn, để làm tốt công tác này đòi hỏi phải kiên trì, thường xuyên, liên tục; vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Một bộ phận người dân và cán bộ nhận thức pháp luật còn hạn chế, chưa có thói quen tích cực, chủ động tự giác học tập, tìm hiểu, chấp hành pháp luật; việc xử lý vi phạm chưa nghiêm.
Một số chủ trương, chính sách của Đảng về PBGDPL chậm được thể chế hóa, cụ thể hóa hoặc triển khai thực hiện thường xuyên trong thực tiễn; một số quy định của Luật PBGDPL đã bộc lộ hạn chế; chưa rõ, thiếu tính khả thi hoặc còn mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản khác làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh pháp luật; một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để, thấu đáo, cả về lý luận và thực tiễn. Chương trình, đề án về PBGDPL tuy được ban hành nhiều, mục tiêu đề ra lớn nhưng chưa đặt trong tính hệ thống và cơ chế điều phối các hoạt động, còn trùng lắp về hoạt động, đối tượng, địa bàn; quá trình triển khai thực hiện rất chậm, thiếu các nguồn lực bảo đảm thực hiện và cơ chế đánh giá chất lượng, hiệu quả; chưa bảo đảm tính ổn định, bền vững cũng như sự kế thừa, phát triển các kết quả đạt được sau khi chương trình, đề án kết thúc. Việc hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện, sơ kết, tổng kết, xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả chưa được quan tâm và chú trọng đúng mức nên thiếu điều chỉnh linh hoạt.
Về chủ quan, tư duy, nhận thức về PBGDPL chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu tiếp cận thông tin, tìm hiểu pháp luật của công dân. Vẫn còn bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến PBGDPL, nhất là trong quản lý nhà nước chuyên ngành nên thiếu hướng dẫn, chỉ đạo; chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều, chủ yếu kiêm nhiệm; mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong PBGDPL chưa hiệu quả; tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về PBGDPL chưa theo kịp yêu cầu sự phát triển của thực tiễn. Việc xây dựng, nhân rộng các mô hình điểm, hình thức PBGDPL có hiệu quả chưa thường xuyên; nghiên cứu, tham khảo và học tập kinh nghiệm nước ngoài chưa được chú trọng đúng mức.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Luật PBGDPL
Để nâng cao hiệu quả thực hiện Luật PBGDPL đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, tới đây cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật PBGDPL để làm rõ nội hàm, các thành tố cấu thành PBGDPL; bản chất, đặc trưng của nhóm quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PBGDPL; làm rõ nội dung và phạm vi quyền tiếp cận thông tin về pháp luật; trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm thực hiện quyền cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong học tập, tìm hiểu pháp luật.
Thứ hai, chuyển đổi từ mô hình từ chủ yếu tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật, xuất phát từ Nhà nước và xã hội đến người dân sang mô hình chú trọng giáo dục ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật gắn với giáo dục ý thức trách nhiệm công dân, với nhu cầu tìm hiểu pháp luật thông qua các tình huống, vụ việc, sự kiện pháp lý cụ thể; kết hợp giữa giáo dục kiến thức, quy định pháp luật với giáo dục kỹ năng, thái độ, hành vi ứng xử dựa trên pháp luật.
Thứ ba, việc học tập, tìm hiểu pháp luật phải trở thành chế độ pháp lý bắt buộc của cán bộ và nhân dân. Cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực nào phải nắm vững, am hiểu pháp luật trong lĩnh vực đó; phải gương mẫu tự giác tuân thủ, chấp hành luật; thực thi công vụ trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; phải vận động, giải thích, thuyết phục người dân tuân thủ, chấp hành pháp luật, coi đây là tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ công tác.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL cho sát với từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực; chú trọng công tác giáo dục pháp luật trong các nhà trường, cho các nhóm đối tượng đặc thù; giáo dục pháp luật chuyên biệt thông qua hoạt động công vụ, qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, hòa giải ở cơ sở… Gắn kết chặt chẽ PBGDPL với các hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo vệ chính sách pháp luật, với công tác tuyên giáo, dân vận của đảng và tuyên truyền, vận động nhân dân của các tổ chức đoàn thể xã hội. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để kết nối, chia sẻ thông tin, tài liệu, cơ sở dữ liệu pháp luật; khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bảo đảm cho công tác PBGDPL.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong triển khai thực hiện Luật PBGDPL gắn với triển khai công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống để hình thành nhân cách con người Việt Nam phát triển toàn diện. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về PBGDPL trọng tâm là triển khai thực hiện có hiệu quả Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL. Tiếp tục khai thác, huy động và sử dụng mọi nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL theo chủ trương xã hội hóa, nhất là huy động sự tham gia của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo luật, các tổ chức hành nghề luật, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực pháp luật.
[1] Như: Nghị định số 28/2013/NĐ-CP; Nghị định số 52/2015/NĐ-CP; Quyết định 27/2013/QĐ-TTg; Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017; Quyết định số 471/QĐ-TTg ngày 26/4/2019; Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP; Thông tư số 10/2016/TT-BTP… |
Tiến sĩ ĐỖ XUÂN LÂN Bộ Tư pháp |