Thông báo thu hồi đối với 13 GCNQDĐ của UBND huyện Sơn Động (do cấp vào diện tích lô 1, khoảnh 4 diện tích đất gia đình ông Sử).
Còn nguyên giá trị pháp lý đối với 50,2ha đất được cấp
Thực hiện chính sách giao rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện Sơn Động theo Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ; hộ ông Lê Văn Sử, bà Nguyễn Thị Bắc (trú tại Thôn Hắng, xã Vĩnh Khương, huyện Sơn Động) được giao tại lô 1, khoảnh 4 (bản đồ giao đất lâm nghiệp 02). Ngày 29/01/1996, Chủ tịch UBND huyện Sơn Động đã ra Quyết định cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp cho ông Lê Văn Sử, diện tích đất được cấp là 50,2ha thuộc lô 1, khoảnh 4.
Việc cấp GCNQSDĐ được dựa trên căn cứ khoản 2 Điều 16 Luật Đất đai; Quyết định 184/HĐBT ngày 06/11/1982 và Quyết định 327/HĐBT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về giao đất giao rừng; căn cứ vào Quyết định 678/UBND ngày 21/9/1988 của UBND tỉnh Hà Bắc về chính sách giao đất giao rừng; căn cứ vào Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 về giao đất giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ổn định làm sản xuất kinh doanh; căn cứ trên Biên bản giao nhận rừng và đất lâm nghiệp ngày 23/01/1996 được xác lập bởi đại diện bên giao gồm có ông Hà Đức Lập (đại diện UBND xã), ông Hoàng Văn An (địa chính), ông Nguyễn Văn Tiến (Trưởng bản), ông Hoàng Lan (Hạt Kiểm lâm) và bên nhận là ông Lê Văn Sử cùng thống nhất tại hiện trường giao nhận 50,2ha đất.
Theo GCNQSDĐ được UBND huyện Sơn Động cấp, diện tích 50,2ha, ông Sử đươc quyền chủ động sản xuất kinh doanh nông lâm kết hợp theo kế hoạch của Nhà nước và địa phương ổn định lâu dài thời gian 50 năm và được hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra theo chế độ chính sách hiện hành, được thừa kế và chuyển quyền sử dụng đất rừng và đất lâm nghiệp theo quy định của luật đất đai. Khi Nhà nước cần thu hồi đất rừng và đất lâm nghiệp vào mục đích khác, gia đình được bồi thường thành quả lao động đã làm ra và được Nhà nước giao cho khu đất khác nếu có.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại 50,2ha đất mà ông Sử được giao mới được sử dụng được 25 năm. Căn cứ vào các quy định luật pháp cũng như quyền được sử dụng đất theo GCNQSD đất ông Sử chưa bị Nhà nước thực hiện các thủ tục, chính sách thu hồi đất đối với diện tích đất được cấp, hay nói cách khác pháp lý đối với 50,2ha đất còn nguyên giá trị sử dụng.
Quyết định thu hồi đối với 13 GCNQDĐ của UBND huyện Sơn Động (do cấp vào diện tích lô 1, khoảnh 4 diện tích đất gia đình ông Sử).
Phép chia vô lý và hợp thức hóa đất được chia
Năm 2002, thực hiện dự án trồng rừng Việt Đức (Dự án Việt Đức) tại huyện Sơn Động. Theo đó mỗi cá nhân tham gia dự án có diện tích tối đa không quá 2ha, thời hạn là 10 năm. Nhận thấy gia đình ông Sử, bà Bắc có nhiều diện tích đất rừng nên UBND xã Vĩnh Khương đã phối hợp với Lâm trường Sơn Động I (nay là Ban quản lý rừng phòng hộ) chia đất cho nhiều gia đình thực hiện dự án trồng rừng trên phần diện tích đất 50,2ha thuộc lô 1 khoảnh 4, tổng diện tích khoảng 20,78ha.
Phép chia đất của UBND xã Vĩnh Khương, cùng sự phối hợp của Lâm trường Sơn Động I chỉ là để thực hiện Dự án Việt Đức chứ không phải là Quyết định thu hồi đất của gia đình ông Sử, bà Bắc giao cho các hộ gia đình. Thực tế, UBND huyện Sơn Động là cơ quan có thẩm quyền thời điểm năm 2002 cũng không có bất kỳ Quyết định thu hồi đất nào đối với gia đình ông Sử, bà Bắc để giao cho các gia đình khác trên diện tích 50,2ha đã cấp năm 1996. Phép chia này cho thấy sự vô lý bởi, sau khi dự án hết thời hạn, UBND xã Vĩnh Khương, Lâm trường Sơn Động I không thực hiện các thủ tục để thu hồi đất đã chia và trả lại cho gia đình ông Sử, bà Bắc theo quy định gia đình có quyền sử dụng hợp pháp.
Chính vì vậy, năm 2012, gia đình ông Sử, bà Bắc đã làm đơn đề nghị cấp lại GCNQSDĐ đối với diện tích 50,2ha do phát hiện diện tích cấp GCNQSDĐ năm 1999 bị thiếu chỉ còn 10ha. Ngoài ra các cá nhân (gồm 13 hộ) thực hiện dự án Việt Đức không có ý định trả lại đất dẫn tới tình trạng tranh chấp kéo dài.
Căn cứ năm 1999, ông Sử chỉ cấp GCNQSDĐ diện tích 10ha được thực hiện theo: “việc chuyển từ sổ xanh sang sổ đỏ theo hướng dẫn của ban, nghành chuyên môn, khi chuyển từ sổ xanh sang sổ đỏ thì phần diện tích chuyển không quá 10ha còn phần diện tích còn lại sẽ vẫn để ở trong sổ bìa xanh”. Tại Biên bản làm việc ngày 21/12/2012 giữa đại diện Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (ĐKQSDĐ); Hạt Kiểm lâm huyện Sơn Động; UBND xã Vĩnh Khương và gia đình ông Lê Văn Sử.
Tại Biên bản làm việc ngày 30/3/2016 giữa Phòng Tài nguyên & Môi trường (TN&MT) huyện Sơn Động, UBND xã Vĩnh Khương và gia đình ông Sử đã căn cứ vào ý kiến của xã: “Việc cấp đổi từ sổ xanh được cấp ngày 23/01/1996 với diện tích là 50,2ha sang sổ đỏ được cấp ngày 02/4/1999 là 10ha, căn cứ vào thời điểm giao đất để thực hiện Dự án Việt Đức, mỗi hộ gia đình tham gia không quá 2ha theo thống nhất của Đảng ủy xã do gia đình ông Lê Văn Sử có nhiều diện tích quá nên chia cho các gia đình khác tham gia dự án Việt Đức”.
Từ đó hội nghị đã kết luận: “Thông qua buổi làm việc giữa tổ công tác của Phòng TN&MT với đại diện UBND xã và đại diện gia đình ông Sử, bà Bắc. Việc UBND xã cấp đổi sổ xanh từ 50ha sang GCNQSDĐ còn 10ha mà không căn cứ theo quyết định thu hồi, chỉnh lý hành chính của UBND xã, UBND huyện hoặc văn bản thỏa thuận hay ý kiến tự nguyện trả đất của gia đình”.
Các căn cứ chứng minh các gia đình được Đảng ủy xã Vĩnh Khương chia đất thực hiện dự án Việt Đức trên diện tích 50,2ha của gia đình ông Sử, bà Bắc:
Tại Biên bản làm việc ngày 21/12/2012 giữa đại diện Văn phòng ĐKQSDĐ; Hạt Kiểm lâm huyện Sơn Động; UBND xã Vĩnh Khương và gia đình ông Lê Văn Sử sau khi xem xét hồ sơ đã thống nhất các nội dung, trong đó nêu rõ: “Trong diện tích 40.2ha nằm trong sổ xanh chưa được cấp GCNQSDĐ của ông Lê Văn Sử có 17 hộ dân thuộc xã Vĩnh Khương và có 6 hộ người gia đình, họ hàng của ông Lê Văn Sử thường trú ở huyện Lục Nam lên thực hiện Dự án Việt Đức từ năm 2002”.
Tại Biên bản làm việc ngày 30/3/2016 giữa Phòng TN&MT huyện Sơn Động "Hiện trạng diện tích đất 50,2ha mà gia đình ông Lê Văn Sử được giao có 17 hộ gia đình đang sử dụng là do được Dự án Việt Đức giao, theo chương trình dự án mỗi hộ gia đình tham gia dự án được sử dụng không quá 2ha”.
Tại Văn bản số 71/TNMT-QLĐĐ ngày 25/4/2016 của phòng TN&MT huyện Sơn Động “Về việc xử lý đơn của Lê Văn Sử” ghi rõ quá trình sử dụng đất tại Điểm 1 như sau: “Theo báo cáo của UBND xã Vĩnh Khương khi được giao đất năm 1996 cho đến năm 2000 ông Lê Văn Sử không sản xuất kinh doanh trên diện tích đất được giao. Do vậy năm 2001 UBND xã Vĩnh Khương đã phối hợp với Lâm trường Sơn Động I (nay là Ban quản lý rừng phòng hộ) thiết kế giao đất thuộc lô 1, khoảnh 4 địa phận thôn Hắng cho 14 hộ gia đình tại thôn Đồng Mặn để trồng rừng theo dự án Việt Đức (KV3) với diện tích 20,378ha”.
Tại “Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai” ngày 27/4/2018 của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai xã Vĩnh Khương: “Các gia đình bị kiện đều khẳng định đất được giao theo dự án trồng rừng Việt Đức năm 2001. Không có bất kỳ một ý kiến nào nói lên cha ông họ đã trồng đỗ, sắn từ trước năm 1993”.
Tại Văn bản số 103/CQĐT-ĐTKT ngày 20/4/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Động trả lời về kết quả điều tra, xác minh vụ việc tranh chấp đất rừng cũng đã khẳng định việc giao đất cho 13 hộ dân khi thực hiện Dự án Việt Đức.
Từ những căn cứ xác minh của các cơ quan chức năng có thể thấy trên diện tích 50,2ha đất lâm nghiệp thuộc lô 1, khoảnh 4 được UBND huyện Sơn Động cấp GCNQSDĐ có nhiều hộ gia đình được chia thực hiện Dự án Việt Đức thời điểm năm 2002. Việc UBND xã Vĩnh Khương đã phối hợp với Lâm trường Sơn Động I thực hiện chia đất cho các hộ dân khác trên diện tích đất của gia đình ông Sử, bà Bắc không nằm trong các Quyết định thu hồi đất được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Ngoài ra, sau khi thực hiện xong dự án (thời hạn 10 năm từ 2002 đến năm 2012) các gia đình được chia đất phải hoàn trả đất. Tuy nhiên, không những không trả lại đất cho gia đình ông Sử, bà Bắc đối với diện tích đất đã được UBND huyện Sơn Động giao đúng quy định mà còn thực hiện các thủ tục xin cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất được chia thực hiện dự án. Thực tế, năm 2014, UBND huyện Sơn Động đã thực hiện cấp GCNQSDĐ cho 13 hộ gia đình trái quy định, buộc phải thu hồi vào năm 2017, tại Thông báo số 17/TB-UBND, ngày 20/03/2017, lý do thu hồi, do cấp 13 GCNQSDĐ đã cấp không đúng đối tượng sử dụng đất (cấp vào diện tích đất tại lô 1, khoảnh 4 của gia đình ông Lê Văn Sử).
Sai phạm chồng lấn sai phạm cần xử lý
Thực trạng nguy cơ mất một phần diện tích đất trong tổng diện tích 50,2ha đã được UBND huyện Sơn Động cấp GCNQSDĐ từ năm 1996, thời hạn 50 năm vẫn còn giá trị pháp lý, do các gia đình không chịu trả sau khi hoàn thành dự án được chia. Phải chăng các hộ dân đang chiếm giữ đất đang nằm trong diện tích đất được UBND huyện Sơn Động cấp đúng thẩm quyền cho gia đình ông Sử, bà Bắc, có sự bao che, vi phạm của một số cá nhân, tổ chức trong hệ thống chính quyền huyện Sơn Động?
Thứ nhất, tẩy xóa GCNQSDĐ, làm giả giấy đăng ký cấp GCNQSDĐ. Cụ thể, trong GCNQSDĐ được UBND huyện Sơn Động cấp cho gia đình ông Sử, bà Bắc năm 1996 bị tẩy xóa, một số nội dung trong phần Quyết định giao đất, được quản lý kinh doanh đất rừng và đất lâm nghiệp từ 50,2ha thành 10ha; tại Biên bản giao đất rừng tự nhiên 36,2ha + 14ha bị xóa hoàn toàn; Sơ đồ rừng và đất lâm nghiệp giao cho ông Sử bị xóa phần tên trong sơ đồ…
Ngoài ra, theo Kết luận giám định số 1945/KL-KTHS ngày 30/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Giang thì chữ ký, chữ viết Lê Đình Sử trong Đơn ĐKQSDĐ đề ngày 28/5/1998 không phải do ông Lê Văn Sử ký. Đây là hành vi giả mạo giấy tờ trong công tác, vi phạm hình sự của một số cán bộ, công chức UBND xã Vĩnh Khương nhưng lại báo cáo gian dối cho UBND huyện Sơn Động.
Thứ hai, lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ trái quy định, theo thông báo số 17/TB-UBND của ông Nguyễn Việt Ước, Phó Chủ tịch huyện Sơn Động, ngày 20/03/2017 về thu hồi GCNQSDĐ đã được cấp đối với 13 hộ dân (tại thôn Đồng Mặn, xã Vĩnh Khương, huyện Sơn Động) với lý do thu hồi do cấp 13 GCNQSDĐ đã cấp không đúng đối tượng sử dụng đất (cấp vào diện tích đất tại lô 1, khoảnh 4 của gia đình ông Lê Văn Sử).
Việc thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho 13 hộ dân phần nào cho thấy UBND huyện Sơn Động đã thực hiện theo đúng quy định luật đất đai. Tuy nhiên, việc các cá nhân, tổ chức thực hiện các thủ tụ cấp GCNQDĐ cho 13 hộ dân vẫn chưa bị xem xét trách nhiệm và xử lý theo đúng quy định. Thực tế đến thời điểm hiện tại, 13 hộ dân vẫn đang sử dụng đất tại lô 1, khoảnh 4 trên của gia đình ông Sử mà chưa được các cấp chính quyền Sơn Động xử lý dứt điểm. Điều này buộc bà Bắc tiến hành khởi kiện đến các cơ quan tố tụng để phân xử, trả lại quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình.
Thứ ba, trong quá trình tham gia tố tụng vụ án “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất lâm nghiệp” theo Thông báo thụ lý vụ án số 13/2019/TLST-DS ngày 25/6/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang, ông Nguyễn Việt Ước, Phó Chủ tịch UBND huyện Sơn Động ban hành Văn bản số 483/UBND-KT ngày 03/5/2019 cung cấp thông tin cho TAND với nội dung không đúng sự thật (hợp thức hóa nguồn gốc đất cho 13 hộ dân; khẳng định quy trình cấp đất cho ông Sử, bà Bắc không có thực địa, mốc giới; việc cấp GCNQSDĐ cho ông Sử, bà Bắc không đúng thẩm quyền…) đi ngược lại các chứng cư, văn bản đã được các cơ quan chức năng thẩm định, xác minh trước đó.
Chính vì vậy, bà Bắc đã làm đơn tố cáo các hành vi vi phạm của ông Nguyễn Việt Ước, Phó Chủ tịch UBND huyện Sơn Động lên Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang nhằm làm rõ trách nhiệm, tính trung thực, căn cứ, chứng cứ khi ban hành Văn bản số 483/UBND-KT ngày 03/5/2019 cung cấp thông tin cho TAND không đúng, xâm phạm tới quyền và lợi ích của gia đình.
Đơn tố cáo hành vi vi phạm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ đối Phó Chủ tịch huyện Sơn Động sẽ thông tin trong bài tiếp theo.
VƯƠNG HƯỞNG