/ Pháp luật - Đời sống
/ Bắc Giang: Từ vụ tranh chấp xe rơ mooc, hé lộ dấu hiệu nguỵ tạo chứng cứ

Bắc Giang: Từ vụ tranh chấp xe rơ mooc, hé lộ dấu hiệu nguỵ tạo chứng cứ

04/10/2023 11:36 |

(LSVN) - Theo Luật sư Nguyễn Văn Đoàn, không có bất kỳ tài liệu, chứng cứ, chứng minh về việc góp tiền mua xe rơ mooc giữa nguyên đơn (ông Quy) và bị đơn (bà Nhị). Đồng thời có dấu hiệu nguỵ tạo chứng cứ để khởi kiện, rất cần được làm rõ tại phiên toà phúc thẩm.

Hé lộ dấu hiệu nguỵ tạo chứng cứ?

Ngày 06/10 tới đây, Toà án nhân dân (TAND) tỉnh Bắc Giang sẽ đưa vụ án tranh chấp quyền sở hữu chung tài sản giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Quy (sinh năm 1970 trú tại Lạng Giang, Bắc Giang) và bị đơn là bà Nguyễn Thị Nhị (trú tại thị trấn Kép, Lạng Giang) ra xét xử phúc thẩm. 

Cách đây hơn 11 năm (ngày 03/4/2012), ông Quy đã khởi kiện đề nghị TAND huyện Lạng Giang xét xử giải quyết buộc bà Nhị thanh toán số tiền là 700.000.000 đồng tương ứng với 1/2 giá trị của chiếc xe ô tô biển kiểm soát 98R-0038 và đầu kéo 98K-6568 mà ông Quy cho rằng đã góp tiền “mua chung” với bà Nhị. Nhưng bà Nhị đã đem bán chiếc xe cho ông Vũ Minh Tuấn với số tiền là 1.050.000.000 đồng mà không được sự đồng ý của ông Quy.

Một trong những văn bản có dấu hiệu giả mạo nội dung được ông Nguyễn Văn Quycung cấp cho toà, có trong hồ sơ vụ án.

Ông Nguyễn Văn Quy có nộp cho toà, một số tài liệu chứng cứ, trong đó có một giấy chứng nhận bán xe không ghi ngày tháng, người bán xe là ông Nguyễn Văn Hạnh, ký tên, đóng dấu với chức danh là Giám đốc Công ty TNHH Thương mại xây dựng Đức Hạnh. Một giấy biên nhận ghi ngày 20/01/2010 có chữ ký của ông Nguyễn Văn Quy, Nguyễn Văn Hạnh và Nguyễn Thị Lâm.

Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Lạng Giang đã xác định ông Hạnh không viết giấy biên nhận ngày 20/01/2010 cũng như không bán xe cho bất kỳ ai khác, ngoài việc đã bán xe cho bà Nhị (giấy bán xe ngày 25/01/2010). Nội dung này được thể hiện rất rõ tại Công văn số 81/CV ngày 04/01/2012 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Lạng Giang.

Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Thế Tám (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) cho biết, ông đã gửi đơn tố cáo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an đề nghị làm rõ dấu hiệu giả mạo cũng như động cơ mục đích của những người có liên quan đến việc tạo lập giấy biên nhận (ngày 20/01/2010) và giấy chứng nhận bán xe (không ghi ngày tháng). Theo ông Tám các tài liệu này không những có dấu hiệu nguỵ tạo chứng cứ để khởi kiện, làm sai lệch bản chất của vụ việc mà còn gây khó khăn cho công tác xét xử của các cấp toà.

Văn bản của CA Huyện Lạng Giang thể hiện, ông Nguyễn Văn Hạnh chỉ bán xe cho bà Nhị và không viết giấy biên nhận ghi ngày 20/01/2010.

Vì sao cả nguyên đơn, bị đơn kháng cáo…?

Theo nội dung đơn khởi kiện và các lời khai, ông Quy trình bày vào tháng 12/2009 có mua chung với bà Nhị chiếc xe ô tô biển kiểm soát 98R-0038 và đầu kéo 98K- 6568 với giá tiền là 1.150.000.000 đồng của ông Nguyễn Văn Hạnh, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại xây dựng Đức Hạnh có địa chỉ tại Tân Hưng, Lạng Giang, Bắc Giang.

Tại phiên toà sơ thẩm ngày 06/6/2023, TAND huyện Lạng Giang đã bác bỏ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Quy. Còn theo bản tự khai, bà Nhị thừa nhận khấu trừ cho ông Quy số tiền là 144.000.000 đồng vào số tiền ông Quy cho vợ chồng ông Hạnh vay. Bà Nhị khai đã trả số tiền này, nhưng không có giấy tờ thể hiện việc trả nợ, còn ông Hạnh, ông Quy không thừa nhận việc bà Nhị đã trả số tiền trên. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm, xác định ông Quy được trừ 144.000.000 đồng trong số tiền mua xe của ông Hạnh, tương ứng với 12,52% giá trị chiếc xe khi mua. Do vậy TAND huyện Lạng Giang buộc bà Nhị phải thanh toán cho ông Quy số tiền (làm tròn) là 131.000.000 (tương ứng với 12,5%) trong số tiền bán xe cho ông Vũ Minh Tuấn. 


Theo Luật sư Nguyễn Văn Đoàn, không có bất kỳ tài liệu, chứng cứ, chứng minh về việc góp tiền mua xe rơ mooc giữa nguyên đơn (ông Quy) và bị đơn (bà Nhị).

Trao đổi với phóng viên về bản án sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 06/6/2023 của TAND huyện Lạng Giang, Luật sư Nguyễn Văn Đoàn, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có thể thấy, toà sơ thẩm bác bỏ một phần đơn khởi kiện của ông Quy là có căn cứ. Tuy nhiên toà phúc thẩm cần đánh giá lại toàn diện chứng cứ, tham chiếu với các quy định của pháp luật, để có “phán quyết” công tâm về số tiền 131.000.000 đồng mà toà sơ thẩm đã tuyên buộc bà Nhị phải thanh toán cho ông Quy. Bởi lẽ, việc góp tiền mua chung xe (nếu có) giữa ông Quy và bà Nhị không đáp ứng đúng quy định tại Điều 504 Bộ luật Dân sự 2015 và phải được thực hiện bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 504 Bộ luật Dân sự 2015.

Cấp sơ thẩm xác định bà Nhị đã bỏ ra 1.006.000.000 đồng và không có căn cứ để xác định ông Quy bỏ ra 300.000.000 đồng là phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên cấp sơ thẩm nhận định, ông Quy đã bỏ ra 144.000.000 đồng tương ứng với 12,52% vốn góp mua xe dựa vào bản tự khai của bà Nhị là chưa thuyết phục. Bởi lẽ số tiền này chưa được hai bên (ông Quy, bà Nhị) công nhận là phần góp vốn, mà còn đang gây “tranh cãi” ngay tại phiên toà.(bà Nhị khai đưa cho ông Hạnh trả nợ ông Quy còn ông Hạnh và ông Quy lại không thừa nhận). Điều này cũng mâu thuẫn với chính đề nghị của ông Quy khi  yêu cầu bà Nhị thanh toán là 300.000.000 đồng.

Ngoài ra, Luật sư Đoàn nhận định, bị đơn (bà Nhị) kháng cáo là có cơ sở, còn nguyên đơn (ông Quy) kháng cáo yêu cầu bà Nhị phải thanh toán tiền lãi suất 1%/tháng của số tiền (làm tròn) 131.000.000 đồng là không có căn cứ. Bởi lẽ trong đơn khởi kiện (ngày 03/4/2012) ông Quy không yêu cầu toà giải quyết tiền lãi phát sinh. Đồng thời bà Nhị vẫn đang kháng cáo, không chấp nhận bản án sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 06/6/2023 của TAND huyện Lạng Giang. 

Diễn biến của phiên toà phúc thẩm sẽ được cập nhật trong kỳ tiếp theo.

TẢ THANH THIÊN

Nguyễn Mỹ Linh