/ Chưa được phân loại
/ BÀI TRỰC CHƯA ĐĂNG

BÀI TRỰC CHƯA ĐĂNG

10/02/2022 02:57 |3 năm trước

(LSVN) -

1. Nhà nước pháp quyền Cộng hòa liên bang Đức

(LSVN) - Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là hình mẫu lý tưởng mà nhiều nước trên thế giới hướng tới, bởi đó là kết quả phát triển của nền văn minh nhân loại khi pháp luật được tôn vinh và thực thi hiệu quả…

Cách đây gần hai thế kỷ, khái niệm NNPQ đã ra đời ở Đức. Nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng người Đức thời kỳ Phục hưng Immanuel Kant (1724-1804), đã góp phần to lớn trong việc hoàn thiện và phát triển khái niệm này. Theo đó, chỉ có thông qua phân chia quyền lực thì các quyền của công dân mới được thực thi; trường hợp cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm quyền tự do của người dân thì phải đối mặt với chế tài (trừng phạt)…

Cơ chế bảo hiến đáng tin cậy của CHLB Đức - một trong những yếu tố quan trọng của NNPQ được Luật Cơ bản (LCB) 1949 quy định, đặc biệt với sự kiểm tra, giám sát, phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang và tòa án hiến pháp 16 bang được duy trì và phát triển vững chắc.

Cấu trúc mô hình của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Có thể nói, cấu trúc NNPQ của Đức được thể hiện trên một bức tranh “bảy sắc cầu vòng” phong phú, đa dạng của hệ thống chính trị được mệnh danh là “nhà nước của các đảng phái” với nhiều ý nghĩa từ cấp liên bang đến các bang trên cơ sở quy định trong 102 điều, từ Điều 20 đến Điều 104 LCB 1949.

Tầm quan trọng được ưu tiên hàng đầu về tổ chức nhà nước là 7 cơ quan hiến pháp (Quốc hội liên bang; Hội đồng liên bang; Ủy ban hỗn hợp; Hội nghị liên bang; Tổng thống liên bang; Chính phủ liên bang; Tòa án Hiến pháp liên bang) được thành lập có ý nghĩa to lớn, thiết yếu, cơ bản, với những đặc điểm sau:

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước dân chủ

Điểm qua về nền dân chủ, tự do trong lịch sử nước Đức: Nhà nước cộng hòa Weimar (1918-1933) đánh dấu sự nổi tiếng với nền dân chủ nghị viện (mặc dù do hạn chế về mặt lịch sử nên không hoàn toàn thành công), Hiến pháp Weimar 1919 và “Tòa án nhà nước” để giải quyết các “tranh chấp hiến pháp” của Vương quốc Đức. Trong Nghị viện cộng hòa thời đó đã có tới 6 đảng phái chính trị khác nhau. Những truyền thống quý báu được kế thừa và phát triển kể cả khi thành lập nước CHLB Đức vào năm 1949, vốn được khẳng định tại khoản 1 Điều 20 LCB cho đến ngày nay.

Nền dân chủ được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong hệ thống và phương thức bầu cử, trong các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền và các tổ chức, hiệp hội, cơ quan khác, trường học…

Có thể lấy một trong nhiều ví dụ để minh họa: theo quy định của pháp luật về thi hành án của CHLB Đức thì tù nhân cũng có chế độ nghỉ phép hàng năm và có tài khoản để tích lũy khoản tiền trong thời gian lao động, cải tạo để khi ra tù tái hòa nhập tốt vào đời sống xã hội.

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước liên bang

Nhà nước liên bang được quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB.

Từ năm 1949 đến 03/10/1990, CHLB Đức gồm 11 bang. Sau sự kiện lịch sử đáng nhớ - ngày 03/10/1990 nước Đức tái thống nhất một cách nhanh chóng trong hòa bình, dẫn tới lãnh thổ CHDC Đức trước đó nay hình thành 5 bang mới. Mỗi bang trở thành “một nhà nước địa phương” với cơ cấu, tổ chức gần như cấp liên bang, tuy mức độ, quy mô và thẩm quyền giới hạn: Quốc hội bang, chính phủ bang gồm nhiều bộ, hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực về trật tự an toàn xã hội, giáo dục phổ thông, đại học, hành chính, tòa án hiến pháp bang…

Để bảo đảm ý nghĩa về mặt xã hội, sự công bằng, bình đẳng trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” giữa cơ quan nhà nước cấp trung ương cũng như địa phương, các bang đều có đại diện tại Hội đồng liên bang, Ủy ban hỗn hợp, Tòa án tối cao liên bang…

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước xã hội

Khoản 1 Điều 20 LCB cũng khẳng định CHLB Đức là nhà nước xã hội, vì lẽ đó nhân phẩm con người được đặt lên hàng đầu và quy định tại khoản 1 Điều 1, tiếp theo là các quy định về quyền cơ bản của công dân.

Chúng ta nghe nói nhiều về thuật ngữ “quyền lực nhà nước”, thế nhưng trong NNPQ thì “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” (khoản 2 Điều 20 LCB) hay còn gọi là “nhà nước dân sự”, vì vậy nhân dân phải là “đối tượng điều chỉnh đầu tiên của pháp luật” (từ Điều 1 đến Điều 19 LCB) mà “hiến pháp của hiến pháp” lần lượt thể hiện: bảo vệ nhân phẩm, tự do cá nhân, tự do ngôn luận, bảo vệ hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền sở hữu…

Cộng hòa liên ban Đức bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội tốt nổi tiếng thế giới, trong đó nguyên tắc công bằng xã hội là tâm điểm, mục đích của NNPQ, không bị thay đổi và có hiệu lực vô thời hạn. Nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà nước thật lớn lao trong nhiều lĩnh vực, trong đó không thể không kể đến việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em (khoản 4 Điều 6 LCB); bình đẳng nam nữ trong việc làm và tiền lương; chế độ bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế ưu việt, tôn trọng, giúp đỡ người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội, trợ cấp tiền nhà ở; các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo vệ môi trường, thực hiện tốt mục tiêu cải thiện, nâng cao điều kiện sống của người dân.

Quốc hội liên bang

Quốc hội CHLB Đức khóa XX (2021-2025) vừa được kiện toàn sau cuộc bầu cử ngày 26/9/2021 có 736 nghị sĩ (số lượng lớn nhất từ trước đến nay, đứng thứ hai thế giới) do Đảng Xã hội dân chủ đứng đầu, liên minh với Đảng Xanh và Đảng Dân chủ tự do để có đa số tuyệt đối nhằm thành lập Chính phủ liên bang.

Vốn duy trì và phát triển truyền thống đa nguyên, cởi mở, Quốc hội liên bang hiện tại có 8 đảng phái chính trị: Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo (CDU) 152 ghế, Đảng Xã hội dân chủ (SPD) 206 ghế; Đảng Con đường khác cho nước Đức (AfD) 83 ghế; Đảng Dân chủ tự do (FDP) 92 ghế; Đảng Cánh tả (Die Linke) 39 ghế; Đảng Xanh (Gruenen) 118 ghế; Đảng Liên minh xã hội thiên chúa giáo Đức (CSU) 45 ghế và Đảng Dân tộc ít người gốc Đan Mạch (SSW) 1 ghế.

Cơ sở của bức tranh đa màu sắc trên đây là truyền thống dân chủ như đã nêu trên và quy định tại khoản 1 Điều 22 LCB khi Hiến pháp liên bang khẳng định việc thành lập một đảng phái chính trị là quyền tự do của mỗi người; tuy nhiên, điều lệ, nội dung hoạt động phải phù hợp với nguyên tắc dân chủ, phải công khai tài chính  tài sản của đảng; ngược lại, nếu vi hiến, đảng phái chính trị đó sẽ bị Tòa án Hiến pháp liên bang tuyên bố cấm hoạt động vĩnh viễn.

Ở CHLB Đức, nguyên tắc cơ cấu, tổ chức các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương luôn gắn với phương châm quyền lực không được tập trung vào một cá nhân, cơ quan, tổ chức “quá mức cho phép”. Đây là kết quả của bài học quý báu được đúc kết sau khi nước Đức trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Ví dụ: Chủ tịch Quốc hội liên bang thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng 1 trong 2 người đại diện thuộc Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo; 3 phó chủ tịch quốc hội thuộc 3 đảng phái chính trị khác nhau: Đảng Xanh, Đảng Cánh tả và Đảng Dân chủ tự do.

Một tiêu chí đặt ra trong khi thực hiện nhiệm vụ lập pháp là Quốc hội liên bang phải luôn gắn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vào trật tự pháp luật thống nhất, phù hợp vời hiến pháp; kỹ thuật lập pháp phải bảo đảm tính khúc chiết, nội dung phải minh bạch, rõ ràng; các quy định phải “nhìn xa, trông rộng”, thực tế, dễ áp dụng, tránh sửa đổi, bổ sung nhiều.

Trong quá trình hoạt động, Quốc hội liên bang thực hiện “chức năng kép” không kém phần quan trọng là kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ liên bang, kể cả việc sử dụng Ủy ban điều tra của Quốc hội (Điều 44 LCB) - một công cụ hữu hiệu trong trường hợp thành viên Chính phủ liên bang vi phạm pháp luật. Tương ứng, quốc hội 16 bang trên toàn nước Đức kiểm soát quyền lực chính phủ của các bang.

Để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, năm 2021 Quốc hội liên bang Đức biên chế đến 4.500 cán bộ đảm nhận công việc thư ký, kỹ thuật, phục vụ cùng với 1.700 cộng tác viên khoa học; như vậy, số lượng này gần gấp 10 lần số nghị sĩ quốc hội!

Tại CHLB Đức, vốn từ lâu đã thành thông lệ: đảng đối lập trong Quốc hội liên bang thực hiện công bố kết quả kiểm tra, giám sát Chính phủ liên bang trước công luận. Phương thức này thể hiện tính chất dân chủ, công khai và minh bạch.

Hội đồng liên bang

Hội đồng liên bang có 69 thành viên, là “quốc hội của chính phủ các bang” đại diện cho vhính phủ 16 bang trên toàn nước Đức; có quyền tham gia vào quy trình lập pháp liên bang và các công việc của Liên minh châu Âu. Số lượng thành viên mỗi bang tỷ lệ thuận với dân số của bang, dựa trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” để tất cả các bang đều có đại diện.

Ủy ban hỗn hợp

Ủy ban hỗn hợp giữa Quốc hội liên bang và Hội đồng liên bang gồm 48 thành viên (tỷ lệ 2/3 và 1/3) theo quy định tại Điều 53 LCB. Ủy ban hỗn hợp có vai trò và ý nghĩa to lớn, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp cả nước có chiến tranh và Quốc hội liên bang không thể nhóm họp kịp thời. Việc thành lập và thủ tục của Ủy ban hỗn hợp được quy định trong Quy chế làm việc do Quốc hội liên bang ban hành, tuy nhiên cần được sự đồng thuận của Hội đồng liên bang.

Chính phủ liên bang

Ngày 08/12/2021, Chính phủ CHLB Đức gồm Thủ tướng Chính phủ và 16 bộ được thành lập, trong đó có 7 nữ bộ trưởng, được cơ cấu từ liên minh 3 đảng phái chính trị: Đảng Dân chủ xã hội (trong đó có Thủ tướng Chính phủ), Đảng Xanh (trong đó có Phó Thủ tướng) và Đảng Dân chủ tự do. Qua đó cho thấy năng lực, vai trò của phụ nữ trong chính phủ mới tiếp tục được kế thừa và phát huy, sự bình đẳng giới được thể hiện rõ nét. Thủ tướng Chính phủ là người thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lại là thành viên thuộc Đảng Xanh…

Một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Ở CHLB Đức, các nguyên tắc cơ bản được quy định trong LCB là “bất di bất dịch”, có hiệu lực vĩnh viễn, không bị thay đổi, cho dù có sửa đổi Hiến pháp hoặc các đạo luật có liên quan.

Nguyên tắc phân chia quyền lực

Với CHLB Đức, phân chia quyền lực theo nghĩa rộng ở nhà nước liên bang và nghĩa hẹp ở nhà nước các bang là nguyên tắc được đề cao. Vấn đề là ở chỗ, phân chia như thế nào để phù hợp, sử dụng và kiểm soát tốt quyền lực, tránh vượt quyền, lạm quyền, tham nhũng, nửa vời, qua đó tập trung sức mạnh quyền lực nhà nước để xây dựng, phát triển đất nước, xã hội văn minh, giàu đẹp.

Nhà nước pháp quyền phải là thiết chế được phân chia quyền lực theo quy định tại khoản 2 Điều 20 LCB: lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong đó gắn lập pháp vào trật tự pháp luật phù hợp với Hiến pháp, gắn hành pháp và tư pháp vào các đạo luật và các quy định pháp luật khác (khoản 3 Điều 20 LCB).

Ngoài ra, CHLB Đức là Nhà nước liên bang nên sự phân chia quyền lực cũng trải đều từ trung ương (cấp liên bang) đến 16 bang với những yếu tố tự nhiên, xã hội, môi trường… không giống nhau. Tòa án Hiến pháp liên bang giải quyết các vụ tranh chấp hiến pháp để bảo vệ sự phân cấp, phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang đã được LCB (Điều 30) bảo đảm.

Điều 20 và Điều 28 LCB 1949 quy định một số nguyên tắc cơ bản của NNPQ CHLB Đức. Hiến pháp của 16 bang nước Đức cũng quy định các nguyên tắc hiến định tương ứng. Cho dù có sửa đổi, bổ sung LCB và hiến pháp các bang thì những nguyên tắc cơ bản đó cũng không bị xóa bỏ, không được thay đổi (khoản 3 Điều 79 LCB).

Có thể nói, việc phân chia quyền lực nêu trên là phương thức hữu hiệu nhất để kiểm soát tốt quyền lực lẫn nhau giữa ba “trụ cột” trong một NNPQ và cũng là phương thức tối ưu nhất để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đưa ra những quyết định đúng đắn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật… cho đất nước.

CHLB Đức duy trì “chiến lược nhìn xa, trông rộng”: ngay trong các cơ quan hiến pháp ở cấp cao nhất liên bang thì việc phân chia quyền lực là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cơ cấu, tổ chức. Phân chia quyền lực tạo điều kiện cho cân bằng và kiểm soát tốt quyền lực; xin nêu ví dụ: trong Quốc hội liên bang, tuy Đảng Xã hội dân chủ có số lượng nghị sĩ đông nhất nhưng không vì thế mà đảng này độc quyền lãnh đạo.

Bộ máy nhà nước cũng cần được tinh giản: Phó Tổng thống liên bang do thủ hiến 16 bang thay đổi luân phiên hàng năm (nhiệm kỳ 1 năm) sau khi được bầu làm Chủ tịch Hội đồng liên bang; Phó Thủ tướng Chính phủ liên bang cũng vậy, chỉ có một mà thôi.

Bình đẳng trước pháp luật

Nguyên tắc xuyên suốt của NNPQ liên bang, dân chủ và xã hội CHLB Đức là các cơ quan quyền lực nhà nước phải bảo vệ quyền cơ bản của công dân. Chính phủ liên bang cũng như chính phủ các bang cũng là những chủ thể pháp luật; trong trường hợp vi phạm, bị khởi kiện trước tòa án cũng chỉ là “đương sự”. Người dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật; được trao các cơ hội ngang bằng trong đời sống xã hội là quy định mang nhiều ý nghĩa (Điều 33 LCB).

Trong trường hợp quyền cơ bản của người dân bị cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm, người đó có thể khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp liên bang hoặc tòa án hiến pháp bang để được bảo vệ theo khoản 1 Điều 1 và khoản 4 Điều 19 LCB.

Trong nền kinh tế thị trường xã hội cần được tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh, tự do thương mại, bảo đảm sở hữu tư nhân, bình đẳng giữa các hãng, doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ, không có sự can thiệp của nhà nước; tuy nhiên, nhà nước phải hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện tốt cho kinh tế phát triển.

Xây dựng trật tự pháp luật thống nhất, hợp hiến và có hiệu quả

Trong NNPQ, khi pháp luật giữ vị trí độc tôn, thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất trên cơ sở tôn trọng và phù hợp hiến pháp (LCB) và trật tự pháp luật nói chung, đầy đủ, đồng bộ cả về luật nội dung và luật thủ tục là yếu tố quan trọng, hơn nữa hệ thống pháp luật phải được bảo đảm thực thi có hiệu quả. Ở trung ương - Bộ Tư pháp liên bang, ở địa phương - Bộ Tư pháp các bang được giao trọng trách thực hiện nhiệm vụ này. Trong cùng một vấn đề cần giải quyết thì ưu tiên áp dụng luật liên bang (Điều 31 LCB).

Tính độc lập của tư pháp

Tính độc lập tuyệt đối của các cơ quan tư pháp là mắt xích quan trọng trong guồng máy hoạt động nhịp nhàng của nhà nước pháp quyền CHLB Đức, đặc biệt là tòa án phải đặt nhiệm vụ bảo vệ người dân trước các hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền lên hàng đầu. LCB, các luật tổ chức tòa án là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết những vi phạm do cơ quan nhà nước gây ra (khoản 4 Điều 19 LCB). Thẩm phán có quyền giải thích luật, độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật (Điều 97 LCB), cơ chế tổ chức hoạt động tự do, độc lập và tự quản của các đoàn luật sư. 

Cái hay của quy trình đào tạo thống nhất thẩm phán, luật sư, công tố viên, công chứng viên từ 8 đến 9 năm của CHLB Đức đã tạo nên một đội ngũ cử nhân luật “đa năng”, có thể đảm nhận được công việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Hoạt động Chính phủ liên bang gắn liền với pháp luật  

Định hướng, hoạch định chính sách đúng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Trước Quốc hội liên bang, các nghị sĩ phải được thông tin đầy đủ về các quyết định đó để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ kiểm soát Chính phủ (khoản 1 Điều 43 LCB).

Một số thành quả của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Về kinh tế

Với mô hình kinh tế thị trường xã hội đã trải qua nhiều thập kỷ, CHLB Đức là một cường quốc kinh tế vững mạnh, luôn được nhìn nhận là “đầu tàu” kể từ khi thành lập Liên minh châu Âu (01/11/1993), hiện xếp thứ tư thế giới, nhiều năm là nước xuất khẩu hàng hóa thuộc loại lớn nhất và thứ ba thế giới, được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Chất lượng hàng hóa, sản phẩm xuất xứ từ CHLB Đức là chủ đề mà người tiêu dùng trên toàn thế giới quan tâm. Theo kết quả thăm dò mới nhất của Viện nghiên cứu đánh giá quan điểm YouGov thuộc Trường Đại học tổng hợp Cambrige (Anh) của người tiêu dùng tại 23 quốc gia trên thế giới thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa “Made in Germany” vẫn là số 1 thế giới, trên cả Ý, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Về chính trị, ngoại giao

Mô hình NNPQ liên bang dân chủ và xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB 1949 được xây dựng, phát triển toàn diện và hiệu quả, khẳng định sự đúng đắn, phù hợp.

Là 1 trong 7 nước thành viên sáng lập Liên minh châu Âu (EU) và Khu vực đồng Euro (Eurozone), thành viên của Liên hợp quốc (UNO), Khối Bắc đại tây dương (NATO), Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), Ngân hàng thế giới (WB), Qũy tiền tệ quốc tế (IMF). CHLB Đức là nhà tài trợ lớn; “gánh” 20% tài chính cho Liên minh châu Âu, đứng thứ 3 thế giới về đóng góp cho Liên hợp quốc.

CHLB Đức được nhiều nước thừa nhận có tầm ảnh hưởng lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế gay cấn; có hệ thống chính trị được đánh giá là vững mạnh, trong sạch; chính vì vậy, tham ô, tham nhũng, lạm dụng quyền lực ít có cơ hội phát sinh.

Về khoa học kỹ thuật, công nghệ

Cộng hòa liên bang Đức là xứ sở của phát minh và các kỹ thuật nổi tiếng “Land of Ideas”, đứng đầu thế giới trong một số lĩnh vực công nghiệp và công nghệ; là nơi phát minh ô tô và là quê hương của ô tô hiện đại, sang trọng. Như chúng ta thường thấy, hầu hết các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đều ưa chuộng sử dụng xe Mercedes hoặc BMW chống đạn. Hàng năm, hàng triệu fan “say tốc độ” trên khắp thế giới sẽ đến Đức để thử nghiệm “tay lái lụa” vì đây là nơi duy nhất không hạn chế tốc độ trên đường cao tốc.

Về giáo dục, đào tạo

Hệ thống giáo dục phổ thông, đại học của CHLB Đức có uy tín trên thế giới.

Theo US - New and World Report năm 2021, Trường Đại học tổng hợp Humboldt Berlin là trường được thành lập khá sớm (1810), là hình mẫu cho các nước châu Âu và phương Tây, có hiệu quả nghiên cứu học thuật và danh tiếng xếp thứ 4 ở Đức, nơi đào tạo ra nhiều thiên tài và nhà tư tưởng vĩ đại của Đức và thế giới như Albert Eínstein, Karl Marx, Johann Gotlieb Fichte, Robert Koch… Theo thời gian, các nhà khoa học trưởng thành từ Trường này đã giành được 55 giải thưởng Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học và y học.

Là nước có chế độ học tập miễn phí từ cấp phổ thông cơ sở đến đại học, CHLB Đức thu hút hàng triệu học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh từ nhiều nước trên thế giới đến học tập, nghiên cứu.

Theo Tổ chức thống kê Mikrozensur của CHLB Đức, năm 2019 nước Đức có 862.000 người (chiếm 1,2% dân số cả nước) có học vị tiến sĩ trong các lĩnh vực khoa học, trong đó bao gồm cả đội ngũ giáo sư hùng hậu, phần lớn giảng dạy trong 426 trường đại học tổng hợp, đại học và đại học chuyên ngành, hàng ngàn viện nghiên cứu cũng như làm việc tại Tòa án Hiến pháp liên bang và Tòa án Hiến pháp của 16 bang trên cả nước với cương vị thẩm phán.

Về truyền thông, báo chí

Cộng hòa liên bang Đức, với vị thế đứng thứ 5 thế giới (báo và báo điện tử có lượng lưu hành lớn nhất thế giới) có 340 nhật báo, 17 tuần báo và 1.600 tạp chí các loại nên hầu hết các cơ quan đều có trung tâm báo chí công khai (đất nước của tự do báo chí) nên dư luận công chúng mạnh mẽ, góp phần xây dựng tinh thần trong đời sống xã hội.

Về thể thao, du lịch

Cộng hòa liên bang Đức là cường quốc thể thao, 4 lần vô địch thế giới, 3 lần vô địch châu Âu về bóng đá nam; 2 lần vô địch thế giới, 8 lần vô địch châu Âu về bóng đá nữ, có hơn 24 triệu thành viên, trong đó 3 triệu cầu thủ bóng đá (170.000 đội bóng) chơi trong 24.000 câu lạc bộ.

Đất nước này với những “lâu đài cổ tích” tuyệt đẹp (Neuschwanstein, Sanssouci, Hohenschwangau, Moritzburg…), nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, được xếp hạng thứ 9 thế giới về du lịch là điểm cuốn hút gần 38 triệu du khách mỗi năm.

Hàng năm, “Lễ hội bia tháng Mười” nổi tiếng tại thành phố Muenchen cuốn hút 8 đến 10 triệu du khách trong nước và quốc tế. Đức là nước sản xuất hơn 5.000 loại bia và nhiều năm đứng đầu thế giới về xuất khẩu thức uống yêu thích này.

NGUYỄN QUANG DU

Tòa án Hiến pháp của Cộng hòa liên bang Đức

2. Cần hoàn thiện một số quy định về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

(LSVN) - Trước tình hình đấu tranh phòng chống tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, việc định tội danh chính xác đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội là rất quan trọng. Bởi vì, việc định tội danh đúng sẽ giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và áp dụng hình phạt phát huy được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.

Qua thực tiễn áp dụng tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tác giả thấy rằng đây là tội có tính truyền thống nên các dấu hiệu pháp lý ít thay đổi, các yếu tố cấu thành tội phạm dễ gây nhầm lẫn với các tội danh khác. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù bản chất pháp lý của hành vi không thay đổi nhưng các hình thức và thủ đoạn đã có sự thay đổi nên cần phải có sự nghiên cứu điều chỉnh lại các dấu hiệu pháp lý để đáp ứng với tình hình tội phạm mới. 

1. Một số điểm chưa phù hợp về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” 

Thứ nhất, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định mức khởi điểm của giá trị tài sản để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự là 2 triệu đồng, còn tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định mức khởi điểm là 4 triệu đồng. Trên thực tế có một số trường hợp khi điều tra ban đầu thường rất khó xác định tội danh là lừa đảo hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bởi do định lượng cấu thành cơ bản giữa hai tội không bằng nhau, nên có nhiều trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 4 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính …, nhưng cơ quan điều tra không thể khởi tố ngay được, mà phải tốn nhiều thời gian để chứng minh ý thức của người chiếm đoạt tài sản có trước hay sau khi đã nhận tài sản. 

Trong thực tế, người lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng đưa ra lý do rằng: Sau khi nhận được tài sản mới nảy sinh ý thức chiếm đoạt, để trốn tránh trách nhiệm hình sự. Bởi vì, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 4 triệu đồng, chưa đủ định lượng để khởi tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” dẫn đến bỏ lọt tội phạm, vì không chứng minh được ý thức chiếm đoạt có trước khi nhận tài sản. 

Do vậy, khi xử lý đối với các trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 4 triệu đồng rất dễ xảy ra oan, sai.

Thứ hai, về tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” được quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Theo tác giả là không cần thiết, vì bản thân người phạm tội khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, việc họ sử dụng thủ đoạn gian dối cũng đã thể hiện sự xảo quyệt, họ lợi dụng lòng tin của người có tài sản, làm giả giấy tờ,… một cách tinh vi khiến cho người bị hại tin tưởng giao tài sản, sau đó chiếm đoạt.

Trong mối quan hệ tương quan giữa tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc thiết bị điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” thấy rằng, bản chất của tội phạm này cũng là hành vi lừa đảo, có thủ đoạn gian dối, việc người phạm tội ứng dụng các tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật để thực hiện tội phạm thì rõ ràng mức độ tinh vi, xảo quyệt của tội phạm này cao hơn. 

Như vậy, nếu như người phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác”, thủ đoạn gian dối được đánh giá là “xảo quyệt”, người này bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; nhưng nếu họ sử dụng thiết bị công nghệ, mạng máy tính, mạng viễn thông để lừa đảo thì chỉ bị truy tố ở khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt thấp hơn, điều này là không hợp lý.  

Thứ ba, hoàn thiện các dấu hiệu pháp lý của tội "ừa đảo chiếm đoạt tài sản" đối với một số hình thức mới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như: Lừa đảo qua mạng internet, lừa đảo thông qua hình thức bán hàng đa cấp. Hình thức kinh doanh bán hàng đa cấp rất phổ biến trên thế giới và trong một vài năm trở lại đây cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam, nhưng so với các hình thức kinh doanh khác thì bán hàng đa cấp khá phức tạp và đem lại nhiều rủi ro cho các thành viên tham gia. 

Nhiều quan điểm cho rằng hình thức bán hàng đa cấp chính là một hình thức lừa đảo, đây là hình thức rất khó xác định người bị hại, do đó vấn đề xác định giá trị tài sản bị lừa đảo chiếm đoạt là bao nhiêu rất khó trong khi đó giá trị tài sản là căn cứ để định tội danh nên việc điều tra, truy tố, xét xử đối với tội này rất khó khăn. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức làm hồ sơ khống chiếm tiền hoàn thuế giá trị gia tăng: Trong trường hợp này, người phạm tội lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng của Nhà nước đã lập hồ sơ giả mạo để được hoàn thuế giá trị gia tăng nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước. 

Thứ tư, hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự có liên quan đảm bảo cho việc định tội danh tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" đúng người, đúng tội như Điều 198 Bộ luật Hình sự (Tội “Lừa dối khách hàng”), Điều 192 Bộ luật Hình sự (Tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”),… 

Như đã phân tích ở trên, dấu hiệu đặc trưng nổi bật của tội phạm này là bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Trong thực tế, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản không phải trường hợp nào cũng rõ ràng và thống nhất. Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng những hành vi này đã được Bộ luật Hình sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng như hành vi gian dối trong cân, đo, đong, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng… để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự; hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng là hành vi phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả quy định tại các Điều 192, Điều 193, Điều 195 Bộ luật Hình sự; cũng như ở tội “Đánh bạc” quy định ở Điều 321 Bộ luật Hình sự, tuy không quy định có "thủ đoạn gian dối" nhưng có thể họ sẽ sử dụng những mưu mẹo, gian dối để giành phần thắng nhưng những mưu mẹo đó phải phát sinh trong quá trình chơi hoặc cũng có thể có sự chuẩn bị từ trước nhưng sự chuẩn bị đó không có ý nghĩa quyết định được việc thắng thua mà nó chỉ làm ảnh hưởng phần nào đến kết quả đánh bạc; hoặc việc xác định hành vi nào của người phạm tội bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và hành vi nào bị xử lý tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn”, bởi lẽ ở cả hai tội phạm này chúng ta đều thấy có sự tham gia của các đối tượng là người có chức vụ quyền hạn và họ đã dựa vào chức vụ, quyền hạn đó kết hợp với yếu tố “gian dối” để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mục đích mà người phạm tội hướng đến trong trường hợp này là giống nhau. Hơn nữa, khi họ đã có hành vi phạm tội thì việc chúng ta xử lý họ ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn về cơ bản vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. 

2. Đề xuất hướng hoàn thiện

Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành pháp luật cần rà soát lại toàn bộ các quy định về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, qua đó có những chỉnh sửa, bổ sung đối với Bộ luật Hình sự hiện hành; ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể đối với các vấn đề liên quan. Theo tác giả có thể sửa đổi, bổ sung Điều 174 Bộ luật Hình sự theo hướng sau như sau: 

Thứ nhất, đề nghị nâng mức khởi điểm của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” lên cùng mức 4.000.000 đồng như tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". 

Thứ hai, không quy định tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Thứ ba, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế về thuế, cần coi thủ đoạn làm giả hồ sơ không xuất khẩu để hoàn thuế là thủ đoạn xảo quyệt, đồng thời cần tăng nặng hình phạt đối với các đối tượng làm trong các cơ quan thuế, hải quan, tiếp tay cho các cá nhân trong việc hợp thức hóa hồ sơ để chiếm đoạt tiền thuế. 

Thứ tư, cần phải có sự giải thích rõ ràng trong các văn bản pháp luật để việc áp dụng pháp luật được thống nhất trong quá trình định tội danh, tránh sai sót trong việc xét xử.

Tóm lại, việc chỉnh sửa, bổ sung đối với Bộ luật Hình sự hiện hành và ban hành các văn bản hướng dẫn đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án này, từ đó đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm./.

ĐINH MINH LƯỢNG, ĐẶNG THẾ THANH

Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5

Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình

3. Thủ tục áp giải người vi phạm theo quy định mới nhất

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục xuất cảnh. Trong đó quy định cụ thể về thủ tục áp giải người vi phạm.

Cụ thể, người vi phạm không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền mà không phải do trở ngại khách quan hoặc trường hợp bất khả kháng thì bị áp giải trong các trường hợp sau đây:

- Bị tạm giữ người theo thủ tục hành chính;

- Đưa vào hoặc đưa trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 124 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Những người sau đây đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính:

- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ của lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, cơ quan thuế, Quản lý thị trường, Cơ quan thanh tra, Thi hành án dân sự, Kiểm lâm, Thuế, Kiểm ngư, Quản lý thị trường, Thanh tra.

- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ khác theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Về thủ tục áp giải, theo Điều 32 Nghị định, trước khi áp giải người vi phạm, người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải giải thích cho người bị áp giải về quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình bị áp giải theo quy định của pháp luật, giải đáp thắc mắc của người bị áp giải.

Trong khi áp giải, phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải và cho người bị áp giải. Việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi áp dụng biện pháp áp giải phải bảo đảm đúng nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định tại Nghị định này.

Trường hợp người bị áp giải có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi chống người thi hành công vụ, người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải báo cáo ngay người có thẩm quyền để ra quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với người đó.

Người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải giám sát, quản lý chặt chẽ người bị áp giải, cảnh giác, chủ động, kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; không được tùy tiện giải quyết các yêu cầu của người bị áp giải trong khi đang tiến hành áp giải.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.

DUY ANH

Quy định về xử lý một số tình huống trong khi áp giải

4. 

Kinh nghiệm của một số quốc gia về tổ chức phiên tòa trực tuyến

(LSVN) - Trên thế giới, Tòa án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia cũng như các nhà nghiên cứu, bởi lẽ, những thách thức khi tổ chức phiên tòa trực tuyến là không nhỏ. Trong nội dung bài viết, tác giả cung cấp thông tin cũng như kinh nghiệm của các quốc gia Áo, Đức và Ý về tổ chức phiên tòa trực tuyến.

Phương cách tương tác giữa Thẩm phán, các bên đương sự và Luật sư trong phiên tòa trực tuyến cũng cần phải thay đổi trong bối cảnh mới khác với phòng xử án truyền thống khi việc thiết kế và bố trí tạo ra sự khác biệt giữa phiên tòa trực tiếp với phiên tòa trực tuyến. Phiên tòa trực tiếp tạo ra tính nghiêm minh, không khí nghiêm túc, trong khi đó, thực tiễn tại phiên tòa trực tuyến có phần nào khác biệt.

Thực tế, pháp luật một số quốc gia đã quy định về xét xử trực tuyến từ những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 để hiện đại hóa trình tự và thủ tục tố tụng dân sự hoặc để tổ chức phiên tòa hình sự một cách an toàn hơn. Vào năm 2009, trong khuôn khổ một chương trình có tên gọi “Xét xử trực tuyến/điện tử châu Âu”, các nước thuộc Hội đồng châu Âu đã xây dựng một chương trình xét xử trực tuyến/qua video.

1. Áo

Năm 2004, tại Áo đã áp dụng quy định cho phép nghe các bên, chuyên gia và người làm chứng trong tố tụng dân sự; bị cáo và người làm chứng trong tố tụng hình sự trình bày qua video. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến/qua video đã được quy định tại Điều 589(3) của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật quản lý Tòa án và Đạo luật phòng chống Covid. Mặc dù Hiến pháp của Áo[1] đã quy định các bên trong tranh chấp phải có mặt tại phiên tòa, các phiên tòa dân sự và hình sự phải được mở công khai, tuy nhiên hệ thống pháp luật của Áo cho phép  một số ngoại lệ cho phép các bên có thể tham gia phiên tòa trực tuyến. Đồng thời, việc sử dụng phương tiện thông tin điện tử để tương tác giữa Tòa án và các bên với tư cách là một bộ phận của trình tự tố tụng được coi là một đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp của Áo.

Điều 171 và Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự của Áo cũng quy định việc sử dụng nền tảng họp/xét xử trực tuyến như sau: “Nếu kỹ thuật cho phép, Tòa án có thể thu nhận chứng cứ thông qua phương tiện kỹ thuật để chuyển hóa chữ và hình ảnh, trừ trường hợp việc thu nhận chứng cứ trực tiếp tại tòa án là thích hợp hoặc cần thiết hơn vì lý do đặc biệt có xem xét đến nguyên tắc kinh tế mang tính thủ tục…”. Trong Bộ luật tố tụng hình sự[2], cũng có một điều khoản liên quan đến việc xét xử trực tuyến theo đó để tạo điều kiện cho việc xét xử trực tuyến, tất cả Tòa án, cơ quan công tố và nhà tù được trang bị nền tảng/hệ thống họp trực tuyến[3]. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc sử dụng công nghệ trong các vụ xử dân sự và hình sự trong thực tiễn cũng bị hạn chế trong một số tình huống ngoại lệ.

Ngày 16/3/2020, Đạo luật chống Covid có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh Covid -19. Cân nhắc xu hướng sử dụng các phương tiện điện tử và các nền tảng họp trực tuyến trong các phiên xét xử trực tiếp, Đạo luật phòng chống Covid - 19 chủ yếu mở rộng việc sử dụng các công cụ hiện có để thúc đẩy chức năng quản lý hệ thống Tòa án từ xa. Nói một cách cụ thể hơn, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương án xét xử trực tuyến mà không cần phải đến Tòa [4]. Sự chấp thuận của các bên là bắt buộc, việc xét xử trực tuyến mà không có sự chấp thuận của các bên được coi là vi phạm quyền xét xử công bằng. Tại Áo, luật yêu cầu sự chấp thuận của các bên và bị can trong tố tụng dân sự và hình sự.

Theo Đạo luật này, bên cạnh một số biện pháp khác đã điều chỉnh trình tự và thủ tục của Tòa án trong các vụ án dân sự để ứng phó với dịch bệnh đảm bảo quyền được xét xử kịp thời của các bên đương sự. Luật ứng phó đại dịch Covid[5] cho phép, trong một khoảng thời gian giới hạn, các phiên xét xử được tổ chức trực tuyến với sự đồng ý của các bên trong tố tụng dân sự. Luật cũng cho phép tổ chức các phiên xét xử trực tuyến trong các vụ án hình sự, đặc biệt là liên quan đến việc giam giữ các nghi phạm hoặc bị can. Tuy nhiên, các phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tổ chức trực tuyến trong những trường hợp đặc biệt. Trong tố tụng hành chính, luật chỉ quy định rằng các bên “có thể” được xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, trong quyết định ngày 08/10/2020, Tòa án Hiến pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử trực tuyến - để bảo vệ quyền của họ đối với một phiên tòa công bằng.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Áo sử dụng là Zoom (các quốc gia như: Bang Michigan của Hoa Kỳ, Tây Ban Nha (tòa án Madrid), Vương quốc Anh, Ba Lan, Thụy Sĩ (tòa án thương mại Zurich), Singapore, Tòa án tối cao của Victoria, New Zealand cũng sử dụng nền tảng công nghệ này). Việc sử dụng công nghệ mới phụ thuộc vào sự hợp tác của các Thẩm phán và tình hình tại từng Tòa án. Quy mô của các phòng xử án - trong các phòng lớn, vẫn có thể thực hiện các phiên xét xử trực trực tuyến với các thiết bị kỹ thuật có sẵn. Các Tòa án nơi các Thẩm phán đã làm việc với các hồ sơ điện tử thường có thiết bị kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên, ở một số quốc gia châu Âu, Zoom và các hệ thống thuộc sở hữu tư nhân khác bị coi là không đáng tin cậy vì lý do bảo vệ dữ liệu, mặc dù chúng ổn định và thân thiện với người dùng.

2. Đức

Đầu những năm 2000, việc xét xử qua video đã được đưa ra áp dụng tại Đức. Các phiên xét xử video tại các Tòa án đã được giới thiệu vào năm 1998 để bảo vệ nhân chứng trong các phiên tòa hình sự. Điều 128a của Bộ luật Tố tụng dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý, các quy định tương tự đã được quy định trong các Luật Tố tụng Hành chính và Gia đình. Tuy nhiên, trong thủ tục tố tụng hình sự, chỉ có nhân chứng mới có thể tham gia trực tuyến từ xa, một cách tiếp cận khá khác so với các quy định ở các nước châu Âu khác. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý, nhưng các cuộc xét xử trực tuyến không được sử dụng nhiều trước đại dịch Covid ở Đức, tuy nhiên, quốc gia này có một số kinh nghiệm về các phiên xét xử trực tuyến tại các Tòa án thuế khi các bên và Tòa án sử dụng nền tảng “Máy chủ Truyền thông Video của Cisco (VCS)”.

Ở Đức không yêu cầu sự chấp thuận về mặt pháp lý (tương tự như ở Ireland, San Marino và Tây Ban Nha), Tòa án có thể quyết định tổ chức một phiên xét xử từ xa theo đơn của một bên hoặc thậm chí chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, một cuộc xét xử trực tuyến không được tiến hành trái với mong muốn của các bên. Trong tố tụng hình sự, các phiên xét xử trực tuyến được giới hạn trong việc nghe các nhân chứng trình bày. Ngoài ra, thường có những quy tắc đặc biệt trong tố tụng hình sự và mong muốn của các bên được cân nhắc.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Đức sử dụng là CISCO Webex.  Tại Diễn đàn Thường trực Quốc tế về các Tòa án Thương mại đã đưa ra một bản ghi nhớ vào tháng 5/2020 để hỗ trợ các Tòa án trong việc lựa chọn và sử dụng các nền tảng kỹ thuật. Trong việc chọn một nền tảng cho các cuộc xét xử video, bảo mật dữ liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, ở Đức các hệ thống này được sử dụng trên các máy chủ riêng của Tòa án (tại cơ sở). Các Tòa án đã tuân thủ cách hiểu truyền thống về “phiên xét xử công khai” liên quan đến phiên xét xử trực tuyến. Các Thẩm phán chỉ có thể tiến hành các phiên xét xử trực tuyến từ phòng xử án của họ, phòng xử án phải được công khai. Về mặt kỹ thuật, có thể dễ dàng phát trực tiếp các phiên xét xử và do đó cho phép một số lượng lớn công dân quan tâm đến xem. Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu.

3. Ý

Ở Ý, sự nguy hiểm của các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển và sử dụng các phiên xử trực tuyến qua video tại các Tòa án. Các quy định pháp luật khác nhau cho phép xét xử trực tuyến qua video đã được sử dụng trong cơ quan tư pháp Ý trong hơn 20 năm. Bộ Tư pháp Ý cung cấp các hệ thống nghe nhìn an toàn phục vụ cho hoạt động của Tòa án.

Kể từ năm 1992, Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự Ý quy định “cộng tác viên”, các đặc vụ chìm và những người khác có thể phải đối mặt với nguy cơ gây áp lực hoặc nguy hiểm cho sự an toàn của họ và gia đình, do vậy họ có thể làm chứng thông qua công nghệ trực tuyến. Trong trường hợp này, Thẩm phán sau khi cân nhắc mọi mặt có thể quyết định xét xử video mà không cần sự đồng ý của họ. Tại nơi nhân chứng có mặt, một cán bộ sẽ được bố trí để đảm bảo tính thường xuyên của việc kiểm tra chéo.

Tòa án Hiến pháp được kêu gọi để ra phán quyết về tính hợp pháp của phương pháp thẩm tra chéo (từ xa) này, cho rằng quy định của luật phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc của thủ tục tố tụng[6]. Cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức trong các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 không chỉ cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ nhân chứng mà còn cho thấy lợi thế của việc không chuyển tội phạm nguy hiểm từ nhà tù an toàn đến phòng xử án. Từ năm 1998, Luật tố tụng hình sự của Ý đã quy định rằng trong các phiên tòa xét xử tội phạm có tổ chức hoặc khủng bố, các bị cáo bị giam trong tù được tham gia bằng hội nghị truyền hình[7]. Hội nghị truyền hình được thực hiện bằng cách kích hoạt đường truyền truyền hình giữa nơi giam giữ bị can và phòng xử án. Hơn nữa, một bị can bị giam giữ ở nước ngoài không thể được chuyển đến Ý cũng có thể tham dự phiên xét xử hình sự thông qua hội nghị truyền hình [8].

Cơ sở pháp lý cho các cuộc xét xử trực tuyến đã được đưa ra trước đại dịch, luật đã được sửa đổi để thích ứng trong thời gian đại dịch Covid-19. Các quy tắc tố tụng được áp dụng sau trường hợp khẩn cấp về y tế trong đại dịch Covid-19 đã mở rộng khả năng sử dụng xét xử trực tuyến trong các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, Luật 27/2020 quy định rằng từ ngày 09/3/2020 đến ngày 30/6/2020 (thời hạn sau đó kéo dài đến ngày 31/7/2020), các phiên xét xử hình sự không có sự tham gia của nhân chứng mà không phải là cảnh sát tư pháp thì có thể được tổ chức thông qua các kết nối từ xa được do Bộ Tư pháp quyết định.

Nếu không có sự đồng ý của người bị buộc tội, những quy định này không áp dụng đối với các phiên xét xử chung thẩm và đối với những phiên tòa mà nhân chứng, các bên, nhà tư vấn và chuyên gia cần được thẩm tra lời khai. Trong đợt đại dịch thứ hai, các quy định tương tự đã được thông qua vào cuối tháng 10/2020 có hiệu lực cho đến ngày 31/1/2021. Nếu cần thiết, các quy tắc này có thể được gia hạn thêm. Tại Tòa Giám đốc thẩm Tối cao hầu hết các phiên tòa xét xử, dân sự và hình sự, đều được tổ chức trực tuyến. Các vụ án dân sự vẫn được xét xử trực tiếp, nhưng các phiên xét xử công khai về hình sự thường được tổ chức trực tuyến trên cơ sở kháng cáo được nộp và kết tội bằng văn bản của công tố viên, trừ khi Bộ trưởng Tư pháp hoặc người bào chữa yêu cầu một phiên xét xử trực tiếp.

Kết luận

Cho đến nay, những trải nghiệm tích cực đã được báo cáo từ các quốc gia khác nhau, hều hết đều đồng ý rằng các cuộc xét xử trực tuyến đã tăng lên đáng kể vì đại dịch. Các Thẩm phán đồng tình rằng sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật phù hợp và kết nối internet tốt là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các phiên xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngoài các vấn đề kỹ thuật, các mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng của phiên xét xử và các rủi ro có thể xảy ra đối với quyền xét xử công bằng, đặc biệt là quyền bào chữa cũng được đề cập. Một phiên xét xử nên cung cấp một không gian được kiểm soát bởi Thẩm phán để bằng chứng có thể được thu thập và đánh giá một cách thích hợp. Trong các phiên xét xử trực tuyến, các Thẩm phán có ít quyền kiểm soát hơn đối với giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các bên và nhân chứng. Các Thẩm phán coi các phiên xét xử từ xa là cần thiết trong thời kỳ đại dịch nhưng không thích hợp hơn các phiên xét xử trực tiếp.

Trong một cuộc khảo sát các đại biểu tham dự Hội nghị tư pháp trực tuyến do Bộ trưởng trưởng Tư pháp Cộng hòa liên bang Đức tổ chức ngày 08/12/2020, 70% đại biểu cho rằng trong vòng 3 năm tới việc xét xử trực tuyến qua video sẽ phổ biến toàn châu Âu [9]. Bên cạnh đó, những năm gần đây, một số quốc gia đã hướng tới phương cách “Xét xử trực tuyến/qua video” không chỉ đơn giản là nộp đơn kiện/hồ sơ vụ án qua phương tiện điện tử mà còn sửa đổi luật của mình để áp dụng cách xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngay từ khi đưa ra áp dụng quy định này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và giới Luật sư…đã nêu vấn đề như quyền xét xử bình đẳng và quyền tiếp cận công nghệ.

Ở một số quốc gia, các phiên xét xử trực tuyến được coi là một công cụ quan trọng cho ngành tư pháp không chỉ trong đại dịch mà còn trong tương lai. Trong chặng đường phía trước, cần có nhiều nghiên cứu và thảo luận để phát triển các quy tắc và hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển các phiên xét xử video thành một nơi - mặc dù không phải là một nơi thực tế - nơi công lý có thể được thực hiện.

[1] Điều 90 của Hiến pháp Áo

[2] Điều 165 Luật tố tụng hình sự của Áo

[3] https://edition.cnn.com/2021/02/09us/cat/filter-lawyer-zoom-court

[4] Điều 21 khoản 3 của Đạo luật phòng chống Covid

[5] Điều 21 Luật ứng phó đại dịch covid 19

[6] Bản án No 342 22/7/1999

[7] Điều 146 của Bộ luật tố tụng hình sự có sửa đổi bổ sung 11/1998 và điều 134 của Bộ luật tố tụng hình sự ban hành tháng 4/2011

[8] Điều 205 về thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

[9] https:www.iacajournal.org/article

Luật gia THANH TÙNG

Tạp chí Tòa án nhân dân

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

5. Hướng dẫn xử lý các khoản nợ và tài sản khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước

(LSVN) - Đây là một trong những quy định đáng chú ý tại Thông tư 07/2022/TT-BTC ngày 09/02/2022 do Bộ Trưởng Bộ Tài Chính ban hành hướng dẫn bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập.

Thông tư này hướng dẫn việc bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập khi thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần và các khoản nợ, tài sản tiếp nhận, xử lý theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, tại Điều 7 Thông tư quy định rõ về xử lý nợ và tài sản đã tiếp nhận. Cụ thể, Công ty Mua bán nợ thực hiện các hình thức xử lý nợ và tài sản loại trừ đã tiếp nhận theo quy định tại Nghị định số 129/2020/NĐ-CP và Quy chế tài chính của Công ty, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch và phù hợp với các quy định hiện hành đối với từng hình thức xử lý nợ và tài sản. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì việc xử lý phải đảm bảo theo quy định của pháp luật về đất đai.

Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản bảo đảm khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để tổ chức bán tài sản theo phương thức đấu giá theo quy định.

Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản đảm bảo khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.

Đối với tài sản tiếp nhận theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trường hợp cần thiết phải sửa chữa, nâng cấp độ nâng cao hiệu quả xử lý tài sản theo quy định, Công ty Mua bán nợ được sử dụng nguồn vốn kinh doanh để thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền quy định và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Số tiền thu hồi được sau khi trừ các chi phí phát sinh liên quan đến việc sửa chữa, nâng cấp tài sản, số còn lại được thực hiện theo quy định tại Điều 9 Thông tư này.

Đối với lô tài sản của 01 doanh nghiệp tại 01 địa chỉ:

- Đối với lô tài sản bao gồm các tài sản có giá trị còn lại theo sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp trong lô có tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và Công ty Mua bán nợ chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.

- Đối với lô tài sản trong đó có tài sản có giá trị còn lại theo sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức định giá có chức năng thẩm định giá để thẩm định giá và thực hiện như sau: Trường hợp tổng giá trị theo kết quả thẩm định giá của lô tài sản từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thực hiện bán đấu giá theo quy định; Trường hợp tổng giá trị theo kết quả thẩm định giá của lô tài sản dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn hình thức bán đấu giá hoặc bán thỏa thuận.

Giá khởi điểm để bán đấu giá hoặc bán thỏa thuận được xác định không thấp hơn giá thị trường hoặc giá do tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định (trong trường hợp thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá).

Trường hợp bán theo phương thức thỏa thuận mà có từ 02 người mua (là tổ chức, cá nhân) trở lên và trả mức giá bằng nhau thì thực hiện bỏ phiếu kín với giá khởi điểm là mức giá trả bằng nhau và người mua trả mức giá cao nhất là người được mua lô tài sản. Trường hợp người mua bỏ phiếu kín với mức giá bằng nhau thì tiếp tục bỏ phiếu kín đến khi có người mua trả mức giá cao hơn người mua còn lại theo nguyên tắc giá khởi điểm là mức giá đã trả bằng nhau của lần bỏ phiếu kín liền kề trước đó.

Một số trường hợp xử lý tài sản:

- Trường hợp bán đấu giá tài sản không thành công, Công ty Mua bán nợ điều chỉnh giá khởi điểm theo quy định để tiếp tục bán đấu giá. Mức giảm tối đa không quá 10% giá khởi điểm của cuộc đấu giá không thành công liền kề trước đó.

- Đối với tài sản không có giá trị thu hồi, tài sản cần phải hủy bỏ, tháo dỡ, Công ty Mua bán nợ phối hợp với doanh nghiệp tổ chức hủy bỏ, tháo dỡ hoặc thuê tổ chức bên ngoài thực hiện hủy bỏ, tháo dỡ.

Trường hợp bên nợ thanh toán đủ nợ gốc trong vòng 12 tháng kể từ ngày bên nợ cam kết trả hết nợ gốc thì Công ty Mua bán nợ xem xét xóa nợ lãi chậm nộp (kể cả tiền lãi chậm thi hành án trong trường hợp có quyết định của Tòa án) sau khi bên nợ trả hết nợ gốc theo cam kết.

Đối với khoản nợ không có khả năng thu hồi (bao gồm cả nợ xử lý trước thời điểm bàn giao) đã được Công ty Mua bán nợ theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trên 10 năm (bao gồm cả thời gian doanh nghiệp theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trước khi chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ), Công ty Mua bán nợ báo cáo Bộ Tài chính có ý kiến trước khi Công ty Mua bán nợ quyết định loại trừ, không tiếp tục theo dõi trên sổ sách theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 17 Nghị định số 129/2020/NĐ-CP.

Đối với nợ tiếp nhận theo chỉ định, Công ty Mua bán nợ căn cứ phương án xử lý nợ chỉ định được cấp có thẩm quyền phê duyệt và các hình thức, nội dung xử lý nợ theo quy định tại Nghị định 129/2020/NĐ-CP để xử lý.

DUY ANH

Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình

6. 

Admin