Vi phạm quy định về đấu thầu: Nguyên nhân và giải pháp
(LSVN) – Vừa qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra nhiều quyết định khởi tố, bắt tạm giam các đối tượng có hành vi dàn xếp dự thầu, thoả thuận với nhau về giá bỏ thầu, vi phạm các quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. Vậy, pháp luật hình sự quy định như thế nào về tội "Vi phạm các quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng"? Cần có những giải pháp gì để đấu tranh phòng và chống tội phạm này? Bạn đọc P.Q. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Liên quan đến vấn đề này, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết tội "Vi phạm các quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" được quy định tại Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Theo quy định của Luật Đấu thầu thì lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp đối với: Dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập,...
Quy trình lựa chọn nhà thầu đối với đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế theo Điều 38 Luật Đấu thầu được thực hiện như sau: Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; Tổ chức lựa chọn nhà thầu; Đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng; Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu; Hoàn thiện, ký kết hợp đồng.
Hành vi dàn xếp dự thầu, thoả thuận với nhau về giá bỏ thầu là vi phạm tính công khai, minh bạch, khách quan trong hoạt động đấu thầu, là hành vi thông thầu gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, vi phạm về chế độ quản lý tài sản nhà nước, gây bất bình đẳng trong xã hội, làm giảm sút niềm tin của người dân với các cấp chính quyền.
Bởi vậy, hành vi vi phạm này sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015. cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:
Điều 222. Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng 1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu; b) Thông thầu; c) Gian lận trong đấu thầu; d) Cản trở hoạt động đấu thầu; đ) Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu; e) Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu; g) Chuyển nhượng thầu trái phép. 2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a) Vì vụ lợi; b) Có tổ chức; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; đ) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng. 3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì các hành vi vi phạm Luật Đấu thầu như: Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu; Thông thầu; Gian lận trong đấu thầu; Cản trở hoạt động đấu thầu; Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu; Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu; Chuyển nhượng thầu trái phép mà gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 222 Bộ luật Hình sự với hình phạt có thể tới 12 năm tù.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm quy định về đấu đến mức phải xử lý hình sự như: Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn có những sơ hở thiếu sót trong việc mời thầu, nhận hồ sơ thầu, chấm thầu, kiểm soát trong quá trình tổ chức đấu thầu; quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu chưa được triển khai hiệu quả ở nhiều địa phương; một bộ phận cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống, tham ô, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ để trục lợi; việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện xử lý với các vi phạm với nhóm tội phạm về chức vụ chưa kịp thời, còn có những khó khăn, bị cản trở vì các mối quan hệ, vị trí công tác của người vi phạm; các đối tượng vi phạm có chức vụ, có hiểu biết và nhiều mối quan hệ nên luôn tìm cách che giấu hành vi và gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện và xử lý vi phạm.
Để đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm thì phải tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội thì mới kiểm soát được tình hình.
Đối với các tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ nói chung và tội phạm vi phạm về đấu thầu nói riêng thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây để đấu tranh phòng và chống tội phạm:
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, đặc biệt là chính sách công và các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống tham nhũng, về quản lý tài sản công, quản lý về dầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản công theo hướng chặt chẽ, khoa học, hiệu quả và có tính khả thi, có phân cấp, phân quyền, quy định rõ trách nhiệm cụ thể và tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát để pháy hiện và xử lý sai phạm;
- Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ, công chức;
- Tăng cường cơ chế giám sát, tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản công;
- Cần làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, lựa chọn, bồi dưỡng người đủ phẩm chất, có trình độ, có đạo đức và có bản lĩnh để giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý tài sản nhà nước;
- Cần tiếp tục cải cách tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
- Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có hành vi vi phạm quy định về đấu thầu.
HỒNG HẠNH
Không để xảy ra tình trạng F0 không liên hệ được với cơ sở y tế
Quốc hội Đức thông qua một số sửa đổi trong Luật Bảo vệ chống lây nhiễm
(LSVN) - Ngày 10/12, Quốc hội liên bang Đức đã thông qua một số sửa đổi trong Luật Bảo vệ chống lây nhiễm Covid-19, trong đó có quy định tiêm chủng bắt buộc đối với một số đối tượng nhất định và thắt chặt các biện pháp phòng dịch.
Phóng viên tại Đức cho biết với 571 phiếu thuận, 80 phiếu chống, 38 phiếu trắng, Quốc hội Đức đã thông qua các quy định mới do liên minh "Đèn giao thông" - gồm đảng Dân chủ Xã hội (SPD), đảng Xanh và đảng Dân chủ Tự do (FDP) đề xuất.
![]()
Nhân viên y tế tiêm vaccine phòng Covid-19 cho người dân ở Gruenau, gần Berlin, Đức. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN.
Theo luật mới này, để bảo vệ những nhóm người dễ bị tổn thương, tất cả những người làm việc trong bệnh viện, viện dưỡng lão và các cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác đều phải tiêm chủng bắt buộc. Quy định này cũng áp dụng đối với các cơ sở chăm sóc người khuyết tật, các phòng khám, cơ sở y tế, dịch vụ cấp cứu và các trung tâm giáo dục xã hội.
Theo đó, từ sau ngày 15/3/2022, tất cả các nhân viên làm việc tại các cơ sở này phải có chứng nhận tiêm vaccine phòng Covid-19, ngoại trừ những người vì lý do sức khỏe không thể tiêm vaccine.
Các biện pháp phòng dịch - vốn đã được lược bỏ trong lần sửa đổi luật trước - sẽ được áp đặt trở lại. Theo đó, thời gian tới, tất cả các cơ sở kinh doanh ăn uống, quán bar, câu lạc bộ, vũ trường, cơ sở giải trí và văn hóa đều có thể bị đóng cửa, tùy tình hình dịch bệnh. Các hội chợ thương mại hoặc hội nghị, hội thảo cũng có thể bị cấm tổ chức. Các địa phương được phép bổ sung và mở rộng các biện pháp phòng dịch chặt chẽ hơn.
Để tăng nhanh tỷ lệ tiêm chủng, luật mới quy định bác sĩ, dược sĩ, bác sĩ thú y và nha sĩ cũng được phép tiêm phòng vaccine Covid-19 cho những người từ 12 tuổi trở lên trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện họ phải được đào tạo và có không gian phù hợp dành cho hoạt động tiêm chủng, hoặc tham gia các đội tiêm chủng lưu động.
Theo tân Bộ trưởng Y tế liên bang Đức Karl Lauterbach, cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay của chính phủ liên bang mới tại Đức, trong đó ưu tiên cao nhất là bảo vệ sức khỏe người dân. Ông khẳng định chính phủ liên bang "sẽ làm mọi cách để có thể nhanh chóng kết thúc cuộc khủng hoảng này".
Theo ông, mục tiêu của lần sửa đổi luật bảo vệ chống lây nhiễm này là phá vỡ làn sóng thứ tư của đại dịch và ngăn chặn sự lây lan của biến thể mới Omicron.
Luật sửa đổi sẽ được trình lên Hội đồng Liên bang để xem xét thông qua trong ngày 10/12.
VŨ TÙNG/TTXVN
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật
Trường hợp nào được tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh
(LSVN) – Theo quy định của pháp luật hiện hành, trường hợp nào được coi là bất khả kháng do dịch bệnh; trường hợp nào thì được tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh. Bạn đọc L.A. hỏi.
Căn cứ theo Thông tư liên tịch 01/2021/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC do Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính đã ban hành quy định chi tiết việc áp dụng căn cứ tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh theo điểm c khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 229 và điểm d khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự. Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2021.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông tư nêu rõ, khi áp dụng căn cứ tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh quy định tại điểm c khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 229 và điểm d khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của pháp luật khác có liên quan.
Đồng thời, phải bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; bảo đảm thận trọng khi quyết định áp dụng đối với từng vụ việc, vụ án cụ thể, nghiêm cấm việc lạm dụng; kiểm soát tội phạm, không gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ việc, vụ án khi được phục hồi.
Cụ thể, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ được tạm đình chỉ giải quyết vụ việc, vụ án vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh quy định tại điểm c khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 229 hoặc điểm d khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự khi có đủ các căn cứ sau:
- Đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật mà không thể tiến hành được một hoặc một số hoạt động tố tụng để kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; kết thúc điều tra hoặc quyết định việc truy tố do thuộc một trong các trường hợp quy định;
- Đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; thời hạn điều tra hoặc thời hạn quyết định việc truy tố.
Ngoài ra, các trường hợp bất khả kháng do dịch bệnh như sau:
- Người tham gia tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc địa điểm cần tiến hành các hoạt động tố tụng trong vùng được ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm;
- Người tham gia tố tụng đang bị cách ly y tế theo quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền do bị mắc bệnh dịch thuộc nhóm A hoặc do thuộc trường hợp khác liên quan đến bệnh dịch thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm;
- Người tham gia tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc địa điểm cần tiến hành các hoạt động tố tụng trong vùng được Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế công bố dịch đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
PHƯƠNG HOA
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật
Trường hợp nào không thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác trong Tòa án nhân dân
(LSVN) - Không thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức có thời gian công tác còn lại dưới 18 tháng trước khi đủ tuổi nghỉ hưu.
Ngày 26/11/2021, Tòa án nhân dân tối cao ra Quyết định 2008/QĐ-TANDTC ban hành Quy định về việc chuyển đổi vị trí công tác trong Tòa án nhân dân. Quy định này quy định về đối tượng, nguyên tắc chuyển đổi, thẩm quyền chuyển đổi, phương thức và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và các quy định pháp luật khác có liên quan.
![]()
Ảnh minh họa.
Điều 8 Quy định nêu rõ, trường hợp không thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác: “Không thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức có thời gian công tác còn lại dưới 18 tháng trước khi đủ tuổi nghỉ hưu”.
Ngoài ra các trường hợp chưa thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác cũng được quy định tại Điều 7, cụ thể:
- Người đang trong thời gian bị xem xét, xử lý kỷ luật.
- Người đang bị kiểm tra, xác minh, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử.
- Người đang điều trị bệnh hiểm nghèo được cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận; người đang đi học tập trung từ 12 tháng trở lên, người đang biệt phái.
- Phụ nữ đang trong thời gian mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; nam giới đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi do vợ chết hoặc trong trường hợp khách quan khác, trừ trường hợp theo nguyện vọng của công chức, viên chức.
Về chuyển đổi vị trí công tác trong trường hợp đặc biệt, cơ quan, đơn vị có một vị trí phải định kỳ chuyển đổi công tác mà vị trí này có yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ khác với các vị trí còn lại của cơ quan, đơn vị đó thì việc chuyển đổi do Thủ trưởng cấp trên trực tiếp xem xét quyết định trên cơ sở đề xuất của người người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng báo cáo Thủ trưởng cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc chuyển đổi hay không đối với các vị trí công tác liên quan đến hoạt động xét xử, nhằm xây dựng đội ngũ chuyên gia trong từng lĩnh vực.
HÀ ANH
Triệu tập một số cán bộ Công ty Thoát nước vụ mua chế phẩm Redoxy-3C
Nghiêm cấm đảng viên xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo
(LSVN) – Uỷ ban Kiểm tra Trung ương mới đây đã ban hành Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW hướng dẫn việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm. Một trong những nội dung đáng lưu ý của Hướng dẫn này là việc Đảng viên không được xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.
Hướng dẫn nêu rõ, Đảng viên có trách nhiệm gương mẫu chấp hành quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Quy định, Hướng dẫn về những điều đảng viên không được làm. Đối với nội dung chưa được hướng dẫn trong Quy định này thì căn cứ vào các quy định của Trung ương để thực hiện.
Đảng viên vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm phải xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
![]()
Ảnh minh họa.
Làm rõ nội dung quy định tại Điều 6, Quy định 37-QĐ/TW về Đảng viên không được: “Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Gửi, tán phát đơn khiếu nại, tố cáo dưới mọi hình thức đến nơi không có thẩm quyền giải quyết.
Đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý; kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.”, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định cụ thể Đảng viên không được:
- Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt làm mất, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của tổ chức, cá nhân, như: Tạo dựng sự việc không có thật hoặc xuyên tạc sự việc; tố cáo dưới dạng tờ rơi, sử dụng mạng xã hội để nói xấu, bình luận, đăng tải thông tin, hình ảnh sai sự thật, lan truyền tin nhắn làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của tổ chức, cá nhân. Viết đơn khiếu nại, tố cáo giấu tên, mạo tên (ký tên người khác hoặc ký tên người không có hoặc không đúng với địa chỉ), viết đơn đưa cho người khác ký tên.
- Tổ chức, tham gia, ủng hộ vật chất, cổ vũ tinh thần hoặc kích động, xúi giục, mua chuộc, lôi kéo, cưỡng ép tổ chức, cá nhân tố cáo, khiếu nại dưới mọi hình thức.
- Cố ý gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo dưới mọi hình thức đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết hoặc nơi không có thẩm quyền chỉ đạo, giải quyết theo quy định.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định của Đảng và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý.
- Có hành vi mua chuộc, đe dọa, trả thù, trù dập, xúc phạm đối với người đã phát hiện, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực (gồm cả các thành viên trong gia đình, người thân) hoặc người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo.
DUY ANH
Đảng viên không được phát tán trên mạng xã hội bài viết kích động chống Đảng, chống Nhà nước
Luật sư làm chứng trong các giao dịch mua bán, chuyển nhượng nhà đất
(LSVN) - Nhằm tạo diễn đàn trao đổi chuyên môn, học thuật trước bối cảnh giao dịch mua bán, chuyển nhượng nhà đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và nhiều địa phương trên cả nước diễn biến phức tạp, nhiều rủi ro, ngày 11/12/2021 Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai đã chủ động tổ chức Tọa đàm về chủ đề "Luật sư làm chứng trong các giao dịch mua bán, chuyển nhượng nhà đất" với sự chấp nhận của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai theo Quyết định số 14669/UBND-THNC ngày 26/11/2021.
![]()
Toàn cảnh buổi Tọa đàm.
Diễn đàn đã thu hút được các chuyên gia, nhà khoa học tiếp cận chủ để từ các góc nhìn qua thực tiễn hoạt động nghề nghiệp, nghiên cứu, tạo điều kiện để các Luật sư, Thẩm phán, Công chứng viên, Thừa phát lại, các Nhà nghiên cứu khoa học pháp lý,... giao lưu chia sẻ kinh nghiệm, trình bày quan điểm, kết quả nghiên cứu của mình theo định hướng ứng dụng, đóng góp các giá trị thiết thực cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và hành nghề luật nói chung, nghề Luật sư nói riêng.
Sau hơn 1 tháng phát động, Ban tổ chức Tọa đàm khoa học đã nhận được tất cả 20 tham luận của Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai, các chuyên gia là những người làm công tác thực tiễn, Nhà khoa học ở mọi miền đất nước với những đóng góp hết sức thiết thực và giá trị.
Buổi Tọa đàm có sự tham gia của các đại biểu là các tác giả có tham luận, Luật sư Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai và các tỉnh bạn, đặc biệt là lãnh đạo Tỉnh ủy, Sở Tư pháp và các cơ quan ban ngành khối nội chính tỉnh Đồng Nai.

ThS. Luật sư Lê Quang Y - Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai điều phối Tọa đàm.
Tọa đàm khoa học được Ban tổ chức quyết định chia thành 02 phiên do ThS. Luật sư Lê Quang Y - Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai điều phối. ThS, Luật sư Lê Quang Y đã gợi mở những vấn đề cần lưu ý theo từng chủ đề và đề nghị các diễn giả đi vào trọng tâm pháp luật điều chỉnh hoạt động làm chứng của Luật sư/Tổ chức hành nghề Luật sư, những khe hở của Luật, hệ lụy có thể xảy ra ảnh hưởng đến uy tín, nghề nghiệp Luật sư và đề xuất giải pháp thiết thực để khắc phục những hạn chế.
Tại Phiên thứ nhất với chủ đề "Hoạt động làm chứng của Luật sư/Tổ chức hành nghề Luật sư: Pháp luật và thực tiễn áp dụng" đã có 6 tham luận được trình bày.
Phiên thứ hai chủ đề "Đánh giá phạm vi trách nhiệm và giải pháp nâng cao hiệu quản lý Nhà nước đối với Luật sư/Tổ chức hành nghề Luật sư làm chứng trong các giao dịch mua bán chuyển nhượng nhà đất" cũng có 6 tham luận được trình bày.

Có thể khẳng định, tuy là lần đầu tiên Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai tổ chức nhưng diễn đàn đã thu hút sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh Đồng Nai, các Nhà khoa học, Luật sư, Công chứng viên, Thừa phát lại. Các vấn đề được Ban tổ chức đặt ra nhận được phản hồi tích cực từ các diễn giả, thể hiện qua 20 tham luận đồ sộ, nhiều phân tích, đánh giá có giá trị tham khảo.
Qua 4 tiếng làm việc, Tọa đàm đã được tổ chức thành công tốt đep.
PV
Vi phạm quy định về đấu thầu: Nguyên nhân và giải pháp
Vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ ‘Phạm tội do lạc hậu’ quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự
(LSVN) - Trong các tình tiết của vụ án hình sự thì tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội vì đây là một trong những căn cứ để Hội đồng xét xử quyết định hình phạt.
![]()
Ảnh minh họa.
Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không những là cơ sở pháp lý để Hội đồng xét xử đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, từ đó quyết định hình phạt tương xứng với tích chất hành vi phạm tội mà còn đảm bảo việc cải tạo giáo dục người phạm tội, góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc bình đẳng và bảo đảm quyền con người.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã có sự sửa đổi bổ sung trên cơ sở kế thừa phần lớn các quy định trước đó của BLHS năm 1999. Cụ thể, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 bao gồm 22 tình tiết, tăng 4 tình tiết so với quy định trước đây tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 là 18 tình tiết. Bốn tình tiết giảm nhẹ được bổ sung trong BLHS năm 2015 được quy định tại các điểm đ, l, p, x khoản 1 Điều 51.
Trong đó tình tiết quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 “Phạm tội do lạc hậu” cũng là một tình tiết được giữ nguyên từ BLHS năm 1999 của người phạm tội. Trường hợp phạm tội này là do sự hạn chế về mặt nhận thức do trình độ lạc hậu, thấp kém, đi chậm so với tiến trình phát triển chung của xã hội. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ thế nào là “Phạm tội do lạc hậu”, điều này khiến người áp dụng pháp luật có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng tình tiết này chưa được thống nhất giữa các Tòa án.
1. Quan niệm về “Phạm tội do lạc hậu”
Theo từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Chủ biên là Giáo sư Hoàng Phê (Nhà xuất bản Hồng Đức năm 2018) thì “lạc hậu” là bị tụt lại phía sau, không theo kịp đà tiến bộ, đà phát triển chung.
Hiện tại các cơ quan về chuyên môn chưa có hướng dẫn phạm tội do lạc hậu là như thế nào, nhưng theo bản thân tôi “Phạm tội do lạc hậu” là trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội do đời sống sinh hoạt xã hội, không (thiếu) hiểu biết về pháp luật, mọi xử sự trong xã hội đều theo thói quen phong tục, tập quán, tín ngưỡng (cổ hủ, lạc hậu). Họ có hành vi trái với pháp luật mà không hiểu biết mình phạm tội lại cho rằng phù hợp với lợi ích cộng đồng. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội họ nhận thức rất kém về tính trái pháp luật của hành vi đó do khách quan.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu như yếu tố địa lý (sinh sống ở vùng xa xôi, hẻo lánh), yếu tố dân tộc (người dân tộc thiểu số), yếu tố văn hóa tín ngưỡng (mê tín, hủ tục)… và nguyên nhân dẫn đến trình độ lạc hậu của người phạm tội phải là khách quan như do không có điều kiện để được học tập, tiếp cận, cập nhật thông tin hoặc do tín ngưỡng, tôn giáo,... không có những điều kiện thực tế để họ nhận biết được giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu.
Về ý thức chủ quan họ không muốn như vậy nhưng do đặc thù cộng đồng, vùng miền đã có những nếp sống theo tập quán, phong tục từ xa xưa nên không theo kịp sự phát triển của xã hội, trong đó có tri thức của nhân loại, không nhận thức được cái nào là đúng, cái nào là sai. Tuy nhiên, tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” có ý nghĩa phạm vi rộng cần phải xác định được nhiều yếu tố, điều kiện như thế nào là lạc hậu để đưa ra quyết định chính xác khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, thực tiễn xét xử cho thấy còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau nên khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này còn mang tính chất tùy nghi, thiếu thuyết phục. Vì vậy, cần phải có sự đánh giá một cách toàn diện, để vận dụng một cách chính xác và nhằm đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng pháp luật.
2. Vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS
Kế thừa những quy định của BLHS 1999, tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 “Phạm tội do lạc hậu” thể hiện sự ưu việt của pháp luật hình sự Việt Nam, đề cao tính nhân văn, nhân đạo đối với người có hành vi phạm tội. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bị kết án nhận ra lỗi lầm, tích cực cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, đây là quy định mang tính chất rộng còn có những cách hiểu khác nhau và chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có sự thận trọng, đánh giá, vận dụng một cách kỹ lưỡng, trong việc áp dụng điều luật này. Thực tiễn xét xử cho thấy tình tiết này không áp dụng nhiều nhưng khi xảy ra thì có những quan điểm khác nhau, chẳng hạn như vụ án sau:
Khoảng 09 giờ ngày 05/4/2020, T. cùng với vợ là H. đều là người dân tộc Dao trú tại xã Nam Dao, huyện Krong Bô, tỉnh Đắk Lắk, đi đến rẫy của hai vợ chồng thuê giáp ranh với rừng trồng do Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đ. quản lý để đốt cỏ, bắp khô chuẩn bị trồng bắp vụ mới. Khi đến rẫy cả hai cùng nhau dùng dao phát, chặt các cây bắp khô cho ngã rạp xuống đất để nguyên tại chỗ và dọn dẹp cỏ khô xung quanh rẫy tạo thành ranh để cản lửa rộng khoảng 02 mét. Khoảng 11 giờ cùng ngày T. dùng bật lửa để đốt cỏ và bắp khô. Sau khi đốt, T. và H. không có ai ở lại giám sát việc đốt cỏ khô trên mà đi đến khu vực khác để mở rộng ranh cản lửa. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày ngọn lửa cháy lan sang khu vực rừng trồng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đ. Thấy vậy T. và H. đã dùng cây tươi để dập lửa nhưng không được. Sau đó T. và H. đã điện báo cho người nhà đến dập lửa giúp, bản thân hai vợ chồng thì đi đến Công an xã để khai báo về việc đốt rẫy gây cháy rừng.
Ngày 12/01/2021, Tòa án quân sự Khu vực X. xét xử hành vi phạm tội của vợ chồng T. và H., tuyên bố hai bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 313 BLHS. Sau khi xét xử sơ thẩm hai bị cáo có kháng cáo.
Trong vụ án này, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của T. và H. phạm phạm tội “Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy”. Tuy nhiên, về áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” đối với T. và H. thì còn có những quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất: Viện Kiểm sát Khu vực Y. và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” cho các bị cáo là thỏa đáng, phù hợp với hoàn cảnh vì các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên thiếu hiểu biết pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Tòa án quân sự Khu vực X. cho rằng việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” cho hai bị cáo không đủ cơ sở để áp dụng.
Bản thân tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ như trên đã phân tích, trường hợp khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS thì người dân tộc miền núi không hiểu biết pháp luật được xem là phạm tội do lạc hậu thì phải chứng minh được tình tiết đó là do nguyên nhân khách quan đưa lại như kém hiểu biết pháp luật, không được học tập, không có thông tin liên lạc, đi lại khó khăn để có điều kiện thực tế để nhận biết các đúng sai trong cuộc sống,…(VD: tục cướp vợ, tảo hôn,…).
Ngoài ra, như nội dung vụ án nêu trên thì rõ ràng ở đây vợ chồng bị cáo khi thực hiện hành vi đốt cỏ, bắp khô dẫn đến cháy rừng đã lường trước được hậu quả xảy ra nên đã dọn dẹp cỏ khô xung quanh rẫy tạo thành ranh cản lửa rộng 2 mét nhưng vì chủ quan nên sau khi châm lửa đốt vợ chồng bị cáo không ở lại để giám sát đảm bảo an toàn lại đi ra khu vực khác để đốt cỏ, bắp khô tiếp nên để lửa bén ra dẫn đến cháy rừng.
Qua vụ án trên có thể thấy ở đây việc đốt cỏ khô hay đốt bất cứ cái gì bằng hình thức nào ở nơi dễ bắt cháy đều có thể dẫn đến cháy rừng, cháy nhà, tài sản… con người trong cuộc sống không phân biệt vùng miền, người dân tộc thiểu số hay người kinh, việc đốt lửa dọn rẫy là trong cuộc sống hàng ngày họ đã thường xuyên thực hiện, tiếp xúc… nên theo kinh nghiệm họ biết đốt lửa hay đốt cỏ dọn rẫy như thế nào để được đảm bảo an toàn và thực tế ở đây vợ chồng bị cáo đã đã dọn cỏ khô làm ranh rộng 2 mét để ngăn không cho lửa bén ra khu vực khác nhưng vì chủ quan không cắt cử người ở lại giám sát việc đốt cỏ khô trên nên dẫn đến vụ án. Vì vậy áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” cho bị cáo trong vụ án này là thiếu thuyết phục.
Chính vì tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” có những quan điểm khác nhau, đã dẫn đến việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực tiễn chưa đúng, khiến việc quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử đối với bị cáo chưa phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nguyên nhân này là do nhận thức của người áp dụng pháp luật, chính vì vậy cơ quan có thẩm quyền cần phải có hướng dẫn về tình tiết này để việc áp dụng trong thực tiễn được thống nhất.
3. Kiến nghị, đề xuất
Để giải quyết vấn đề đặt ra ở trên, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần xây dựng, ban hành hướng dẫn cụ thể về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS “Phạm tội do lạc hậu” theo hướng sau:
“Phạm tội do lạc hậu là những người mù chữ, không được học hành, sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ở những vùng còn nặng nề về hủ tục, do mê tín dị đoan, do đời sống sinh hoạt xã hội, không hiểu biết về pháp luật, mọi xử sự trong xã hội đều theo phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Họ có hành vi trái với pháp luật nhưng lại cho rằng phù hợp tập quán, với lợi ích cộng đồng. Thực chất khi phạm tội họ nhận thức rất kém về tính trái pháp luật của hành vi”.
Việc ban hành các văn bản hướng dẫn đối với tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội do lạc hậu” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS có vai trò hết sức quan trọng đối với thực tiễn xét xử là phương tiện để đạt đến sự công bằng xã hội và là biểu hiện của chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Đây là một trong những căn cứ quan trọng quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội, có giá trị quan trọng đối với hoạt động quyết định hình phạt của Toà án.
Vì vậy, khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cần phải có sự cân nhắc nhằm đảm bảo quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; mục đích phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Thể hiện tính khách quan, mềm dẻo, linh hoạt trong quá trình giải quyết vụ án.
Thạc sĩ ĐINH MINH LƯỢNG - NGUYỄN DUY LINH
Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5
Vi phạm quy định về đấu thầu: Nguyên nhân và giải pháp

