Sửa đổi, bổ sung quy định về miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn
(LSVN) – Các trường hợp miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn; thẩm quyền, trình tự, thủ tục miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn thực hiện theo quy định tại Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính và khoản 38 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các khoản 2, 3, 4, 5 Điều này.
Nghị định 102/2021/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 16/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải quan; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc Nhà nước; kế toán, kiểm toán độc lập.
Ảnh minh họa.
Trong đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung Điều 43 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn
Các trường hợp miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn; thẩm quyền, trình tự, thủ tục miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn thực hiện theo quy định tại Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính và khoản 38 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các khoản 2, 3, 4, 5 Điều này.
Mức miễn, giảm tiền phạt tối đa bằng số tiền phạt trong quyết định xử phạt và không quá giá trị tài sản, hàng hóa bị thiệt hại, sau khi trừ đi giá trị được bảo hiểm, bồi thường (nếu có).
Người nộp thuế bị thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng quy định tại Luật Quản lý thuế thì hồ sơ chứng minh giá trị tài sản, hàng hóa bị thiệt hại và giá trị được bảo hiểm, bồi thường như sau:
- Biên bản kiểm kê, xác định giá trị thiệt hại vật chất do người nộp thuế hoặc người đại diện hợp pháp của người nộp thuế lập;
- Biên bản xác định giá trị thiệt hại vật chất của tổ chức có chức năng định giá theo quy định của pháp luật (bản chính hoặc bản sao có xác nhận công chứng hoặc chứng thực), trừ trường hợp có hồ sơ bồi thường quy định tại điểm c khoản này;
- Hồ sơ bồi thường thiệt hại vật chất được cơ quan bảo hiểm chấp nhận bồi thường theo quy định của pháp luật (bản chính hoặc bản sao có xác nhận công chứng hoặc chứng thực) (nếu có);
- Hồ sơ trách nhiệm bồi thường của tổ chức, cá nhân phải bồi thường theo quy định của pháp luật (bản chính hoặc bản sao có xác nhận công chứng hoặc chứng thực) (nếu có).
Không miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn đối với các trường hợp đã thực hiện xong quyết định xử phạt.
Trường hợp được miễn, giảm tiền phạt thì cũng được miễn, giảm tiền chậm nộp tiền phạt tương ứng.
Người nộp thuế đã được miễn, giảm tiền phạt nhưng cơ quan có thẩm quyền, cơ quan thuế phát hiện việc miễn, giảm tiền phạt không đúng quy định tại Điều này thì người có thẩm quyền miễn, giảm tiền phạt ban hành quyết định hủy hoặc điều chỉnh quyết định miễn, giảm tiền phạt. Cơ quan thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế có trách nhiệm thu vào ngân sách nhà nước khoản tiền phạt đã được miễn, giảm không đúng và tính tiền chậm nộp trên số tiền phạt được miễn, giảm không đúng. Ngày bắt đầu tính tiền chậm nộp tiền phạt được miễn, giảm không đúng là ngày tổ chức, cá nhân bị xử phạt nộp đầy đủ hồ sơ đề nghị miễn, giảm tiền phạt.
Nghị định 102/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.
HÀ ANH
Trình tự, thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Những vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
(LSVN) - Giới hạn xét xử sơ thẩm là chế định pháp lý quan trọng trong tố tụng hình sự. Xác định đúng đắn chế định này giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc xét xử sơ thẩm; khắc phục được tình trạng chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng như tình trạng bỏ lọt tội phạm hay bỏ lọt hành vi phạm tội.
Qua nghiên cứu các vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại cơ quan, tác giả nhận thấy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) đã có những sửa đổi, bổ sung rất lớn về vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm theo hướng mở rộng phạm vi giới hạn xét xử của Tòa án so với quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2003. Đó là quy định cho Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Điều này đã đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án thực sự đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng tác giả thấy vẫn còn có một số vướng mắc, chẳng hạn khi Tòa án nhân dân cấp huyện được phép xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố, hai trường hợp này thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì dẫn đến vượt thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện. Những vướng mắc đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giải quyết vụ án hình sự, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn hiện nay.
Ảnh minh họa.
1. Khái niệm về giới hạn xét xử sơ thẩm
Trong hoạt động xét xử nói chung, mỗi cấp xét xử đều có những chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với từng vụ án hình sự. Ngay cả đối với vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chỉ có thể xem xét, quyết định đối với những vấn đề của vụ án trong một phạm vi nhất định nào đó theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nghĩa là, khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tòa án chỉ được thực hiện quyền hạn của mình trong một giới hạn nhất định, nếu vượt ra ngoài giới hạn đó, mọi quyết định của Tòa án đều không có giá trị pháp lý. Vì vậy, giới hạn xét xử sơ thẩm là một vấn đề rất quan trọng, nó định ra phạm vi thực hiện quyền hạn của Tòa án khi tiến hành xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự cụ thể.
Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm là cơ sở pháp lý để xác định phạm vi xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa Viện Kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là phạm vi mà Hội đồng xét xử được phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó được hạn chế trong phạm vi những người và những hành vi mà Viện Kiểm sát đã truy tố và Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Cho đến nay, trong hệ thống các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta đều không đưa ra khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm. Các văn bản pháp luật chỉ mới dừng lại ở mức liệt kê những trường hợp hay những việc cụ thể mà Tòa án được quyền thực hiện trong từng giai đoạn giải quyết vụ án hình sự.
Để đưa ra một khái niệm đầy đủ về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thì khái niệm đó phải bao hàm các yếu tố như: chủ thể, quyền hạn, nội dung, đối tượng. Chủ thể ở đây là Tòa án cấp sơ thẩm với chức năng xét xử vụ án hình sự; về nội dung, đối tượng phải là vụ án hình sự trong đó có bị cáo và hành vi của bị cáo đã bị Viện Kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Từ phân tích trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm như sau:“Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là phạm vi những bị cáo, những hành vi của bị cáo mà Hội đồng xét xử được xét xử tại phiên tòa theo tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã ra quyết định xét xử”.
2. Vướng mắc khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 BLTTHS trong thực tiễn
- Quy định tại khoản 2 Điều 298 BLTTHS
Khoản 2 Điều 298 BLTTHS quy định: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát đã truy tố”.
Trường hợp “Tòa án có thể xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật”, có nghĩa là với những hành vi mà Viện Kiểm sát truy tố, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật. Vấn đề đặt ra là khi xét xử Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực thấy có đủ căn cứ để xác định hành vi của bị cáo phạm tội theo khoản có khung hình phạt nặng hơn và thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp (Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu) thì Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện Kiểm sát có thẩm quyền truy tố (theo Điều 274 BLTTHS).
Nhưng nếu Viện Kiểm sát đã truy tố cho rằng vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ và chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án thì trong trường hợp này vụ án sẽ do Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải quyết khi quy định tại Điều 275 BLTTHS chỉ có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các Tòa án nhân dân cùng cấp (Tòa án quân sự cùng cấp) mà không có quy định về giải quyết tranh chấp giữa Tòa án nhân dân cấp trên (Tòa án quân sự cấp trên) và Tòa án nhân dân cấp dưới (Tòa án quân sự cấp dưới).
Ví dụ: Viện Kiểm sát nhân dân huyện X, tỉnh Y truy tố bị can A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự (BLHS) và chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Y để xét xử theo thẩm quyền. Trong quá trình xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân huyện X thấy có căn cứ để xét xử bị cáo A theo điểm a khoản 4 Điều 274 BLHS nên Tòa án nhân dân huyện X đã căn cứ Điều 274 BLTTHS để trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện X để chuyển lên Viện Kiểm sát cấp trên truy tố theo thẩm quyền, tuy nhiên Viện Kiểm sát nhân dân huyện X cho rằng việc truy tố bị cáo A theo điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS là đúng quy định nên không chuyển hồ sơ lên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Y. Trong khi quy định tại Điều 275 BLTTHS lại không quy định về giải quyết tranh chấp trong trường hợp trên và chưa có văn bản nào của cơ quan chuyên môn hướng dẫn về vấn đề này, dẫn đến Tòa án có thẩm quyền không xét xử bị cáo A theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS được.
Để các Tòa án không bị vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình thì cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng trường hợp nêu trên.
- Quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS
Khoản 3 Điều 298 BLTTHS quy định:“Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện Kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện Kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.
Quy định trên chỉ phù hợp trong trường hợp Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu. Vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 268 BLTTHS thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu có thẩm quyền xét xử những vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiệm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp Viện Kiểm sát truy tố bị can về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng nhưng Tòa án cho rằng bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại. Tòa án đã thực hiện đúng quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS, nếu Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu có quyền xét xử bị cáo về tội danh đặc biệt nghiêm trọng đó.
Trong trường hợp này, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu chỉ cần thi hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, về đảm bảo quyền bào chữa,... Tuy nhiên, trường hợp Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực thì không thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố, nếu tội danh mà Tòa án định xét xử là tội đặc biệt nghiêm trọng. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1 Điều 268 BLTTHS, thì Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Trường hợp này Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực tiến hành ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát đã truy tố để chuyển Viện Kiểm sát có thẩm quyền truy tố về tội danh nặng hơn theo quy định tại khoản 1 Điều 274 BLTTHS.
Nếu Viện Kiểm sát đã truy tố không đồng ý thay đổi tội danh, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và không ban hành quyết định chuyển vụ án lên Viện Kiểm sát cấp trên có thẩm quyền mà trả lại hồ sơ cho Tòa án nhân dân cấp huyện (Tòa án quân sự khu vực) thì Tòa án nhân dân cấp huyện (Tòa án quân sự khu vực) sẽ làm như thế nào trong khi Điều 275 BLTTHS chỉ quy định giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các Tòa án quân sự khu vực trong cùng một Quân khu; giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các Quân khu khác nhau; giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự Quân khu; giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự mà không quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử khi Viện Kiểm sát cấp huyện không đồng ý thay đổi tội danh nặng hơn và không chuyển vụ án lên Viện Kiểm sát cấp trên để truy tố theo thẩm quyền.
Quy định Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực được phép xét xử bị cáo nặng hơn về tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố có thể dẫn đến vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, để xử lý vấn đề này cơ quan chức năng lại chưa có văn bản hướng dẫn, dẫn đến thực tiễn áp dụng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ví dụ: Khoảng 08 giờ ngày 02/5/2018, Nguyễn A mang hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của công ty đến phòng Lê B để trình ký nhưng B chưa ký ngay mà nói để kiểm tra. Nghĩ rằng B gây khó khăn cho mình, A đi đến bếp ăn của công ty lấy 01 con dao (loại dao chặt xương) bỏ vào trong cặp rồi quay lại phòng làm việc của B. Lúc này B đang ngồi ở bàn làm việc, A đến đứng sau lưng phía bên trái cách B khoảng 90cm, thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình chưa được ký duyệt, A lấy dao từ trong cặp ra, tay phải A cầm dao vung lên chém 01 nhát từ trên xuống dưới vào phía sau đầu B, B ôm đầu đứng dậy, A tiếp tục chém nhát thứ 02 vào vùng sau cổ của B khiến B gục tại chỗ, thấy vậy A đi về phòng làm việc. Giám định pháp y kết luận tỷ lệ thương tích của B là 46%.
Viện Kiểm sát nhân dân huyện X, tỉnh K truy tố A tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh K để xét xử theo thẩm quyền. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án thẩm phán xét thấy hành vi của A có dấu hiệu của tội “Giết người” (chưa đạt) nên đã trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát nhân dân huyện X để chuyển hồ sơ lên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh K để truy tố theo thẩm quyền (theo Điều 274 BLTTHS), nhưng Viện Kiểm sát nhân dân huyện X cho rằng việc truy tố A theo điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS là đúng quy định và không chuyển hồ sơ lên Viện Kiểm sát cấp trên mà chuyển lại hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện X để xét xử theo thẩm quyền.
Việc không có quy định, hướng dẫn về giải quyết thẩm quyền trong trường hợp này đã dẫn đến việc bị cáo A không được Tòa án có thẩm quyền xét xử đúng về hành vi đã phạm tội.
3. Kiến nghị, đề xuất
Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành pháp luật cần rà soát lại toàn bộ các quy định về “Giới hạn của việc xét xử”, qua đó ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015 theo hướng sau:
“Trường hợp Tòa án xét thấy cần xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh Viện Kiểm sát đã truy tố mà các trường hợp này đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên thì Tòa án nhân dân cấp huyện (Tòa án quân sự khu vực) tiến hành chuyển vụ án theo đúng quy định tại Điều 274 BLTTHS. Nếu Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện Kiểm sát quân sự khu vực thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ và Viện Kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án cùng cấp, thì Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực tiến hành xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát cùng cấp đã truy tố và ra bản án kết tội đối với bị cáo, sau khi xét xử xong Tòa án cấp sơ thẩm làm công văn gửi lên Tòa án cấp trên kiến nghị về hành vi của bị cáo có dấu hiệu phạm tội theo khoản nặng hơn hoặc tội danh khác nặng hơn khoản, tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, do không có thẩm quyền để xét xử khoản, tội danh khác nặng hơn nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo theo khoản, tội danh mà Viện Kiểm sát cùng cấp đã truy tố”.
Để quá trình áp dụng pháp luật không gặp phải vướng mắc như trên thì cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn để việc áp dụng được thống nhất.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra những vướng mắc khi áp dụng Điều 298 BLTTHS năm 2015 trong thực tiễn, trên cơ sở đó tác giả mạnh dạn đưa ra những đề xuất, kiến nghị của mình nhằm góp phần hoàn thiện quy phạm Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm để nâng cao hiệu quả, chất lượng của Tòa án. Giới hạn xét xử sơ thẩm được quy định phù hợp là yếu tố quan trọng để bảo đảm cho việc thực hiện mục đích chung của Tố tụng hình sự là xét xử khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Thạc sĩ ĐINH MINH LƯỢNG, ĐẶNG THẾ THANH
Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5
Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ cổ đông thiểu số theo quy định pháp luật hiện hành
Trường hợp nào cha, mẹ đều không có quyền nuôi con sau ly hôn?
(LSVN) - Theo quy định của pháp luật có trường hợp nào cả cha và mẹ đều không giành được quyền nuôi con không?
Ảnh minh họa.
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Tuy nhiên, khoản 4 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nêu rõ: Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Theo quy định, nếu cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì người nuôi con sẽ là người giám hộ. Đây cũng là quy định được nêu tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự, người được giám hộ là người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ.
Như vậy, các trường hợp Tòa án sẽ quyết định giao con cho người giám hộ gồm:
- Cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự;
- Cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
- Cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền với con.
- Cha, mẹ không có điều kiện để chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ.
Bên cạnh đó, Điều 49 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện của cá nhân làm người giám hộ. Theo đó, cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
- Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
- Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, trong các trường hợp trên, con không ở với cha hoặc mẹ sau khi cha, mẹ ly hôn mà sẽ được người giám hộ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục,…
HỒNG HẠNH
Cần điều kiện gì để được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
Ly hôn thuận tình theo pháp luật triều Nguyễn
(LSVN) – Ly hôn thuận tình là sự ly hôn do sự thỏa thuận giữa hai bên vợ chồng và không cần có án văn. Trong Luật Hồng Đức không có điều khoản nào nói về sự thỏa thuận ly hôn. Nhưng trong Hồng Đức thiện chính thư có một điều luật được ban hành vào năm 1494 đã chấp nhận cho sự ly hôn thuận tình (Đoạn 167).
Ở Luật Gia Long, tại Điều 108 đã quy định rõ: “Nếu vợ chồng không ăn ở hòa hợp được với nhau và cả hai cùng muốn ly dị thì không phải tội vì tình đã đến mức chia lìa thì khó mà níu kéo hòa hợp được”. Chú thích về điều luật này, nhà làm luật ở thời Gia Long đã nói rõ thêm như sau: “Nếu vợ chồng không thể sống hòa hợp được với nhau và cả hai đều mong muốn được ly dị thì có thể xem như là tình đã không hợp được, mà nghĩa cũng đã lìa tan, cho nên không thể hòa hợp được nữa. Tuy là cái điều không ai mong muốn xảy ra, nhưng vì là tình trạng đã tuyệt nghĩa nên cũng đồng ý với sự ly dị mà không bắt tội”.
Ảnh minh họa.
Song, vấn đề đặt ra là, dù hai vợ chồng có thuận tình muốn chấm dứt các nghĩa vụ phu phụ và không ăn ở với nhau làm vợ chồng được nữa, họ cũng không cần phải hội đủ về các điều kiện pháp lý nào cả, thì ngoài sự đồng ý về việc ly dị, trong trường hợp ấy họ cần phải có một thể thức nào để làm bằng chứng cho tương lai hay không hay chỉ là một sự chia tay một cách đơn giản?
Nếu giá thú đã đòi hỏi những nghi thức trọng thể, với sự tham dự của các thân thuộc bằng hữu, thì sự ly hôn mặc dù dưới hình thức ưng thuận cũng khó có thể chỉ là một sự chia tay âm thầm, không có một chút thể thức nào để làm bằng chứng về sự ưng thuận ly dị và đảm bảo đối với quyền lợi cho mỗi bên đương sự trong tương lai.
Sự chia tay đơn giản chỉ có thể quan niệm được đối với những cặp vợ chồng “cầu hợp”, nghĩa là đối với những người đã chung sống như vợ chồng nhưng không cử hành về nghi lễ giá thú theo luật lệ. Trái lại, một khi đã có cưới xin đàng hoàng, thì nếu hai vợ chồng hoặc vì tính tình xung khắc, hoặc vì một duyên cớ bất hòa nào khác, đã không muốn ăn ở với nhau được nữa và họ cùng đồng tình trả lại tự do cho nhau, thì họ thường làm với nhau một tờ giấy cam kết. Tờ giấy này thường được hai bên đương sự làm tự với nhau, mà không cần có người chứng kiến. Nói đúng hơn, giấy cam kết ấy, trong phần đông các trường hợp, là do người chồng làm và giao cho người vợ, trong đó chứng nhận rằng người này có thể được tự do tái giá.
Đôi khi ngược lại, để tránh các khó khăn trong công việc lập gia đình với một người đàn bà khác, nên người chồng đã yêu cầu người vợ cấp cho một tấm giấy chứng nhận là trả lại tự do cho mình để được tái thú, nhất là đối với một người vợ khó tính, hay kiếm chuyện gây gổ. Song, cũng có khi giấy thuận tình ly hôn đều do cả hai vợ chồng cùng ký kết (thường là người chồng ký và người vợ điểm chỉ), chúng được làm thành hai bản, và trên chỗ mép của hai bản giấy này đã được ghép lại với nhau để ghi chữ “giáp lai”, rồi giao cho mỗi người giữ một bản để làm bằng.
Điểm qua các duyên cớ ly hôn trên đây, cho thấy quyền lợi của người đàn bà trong ly hôn chưa được cổ luật đảm bảo một cách đầy đủ. Người chồng có thể rẫy vợ trong những trường hợp thất xuất, ngoài sự can thiệp và kiểm soát của tòa án. Nếu bị oan ức, thì người vợ phải đi kiện mới có thể làm sáng tỏ được vấn đề, nhưng cũng không phải dễ dàng.
Cả trường hợp ly hôn thuận tình cũng không phải hoàn toàn đảm bảo được quyền lợi của người đàn bà. Hơn nữa, trong những trường hợp nghĩa tuyệt, cổ luật còn bắt người chồng phải bỏ không thì sẽ bị hình phạt. Chỉ có một số ít trường hợp được luật pháp công nhận cho cả hai người phối ngẫu có quyền được xin ly hôn.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cho thấy các nhà làm luật dưới triều Nguyễn cũng đã khá chu đáo trong việc bảo vệ về quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và ổn cố của đời sống gia đình. Hơn nữa, trong thực tế, vì mục đích cao cả của giá thú trong xã hội Việt Nam ngày trước, cùng với sự mở rộng cửa của chế độ đa thê, vấn đề danh dự giữa hai dòng họ thông gia, sự giáo dục cẩn thận của gia đình (tức là gia giáo), sự củng cố của nền nếp gia phong, ý thức về tình nghĩa và bổn phận đã ràng buộc chặt chẽ đối với con người trong xã hội cũ, nên những hiện tượng ly hôn trong xã hội ngày xưa thường rất ít diễn ra.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về thuận tình ly hôn. Theo đó, trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn. |
CẨM NGỌC
Pháp luật triều Nguyễn quy định về chế tài của điều kiện kết hôn
Vi phạm quy định về đấu thầu: Nguyên nhân và giải pháp
(LSVN) – Vừa qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra nhiều quyết định khởi tố, bắt tạm giam các đối tượng có hành vi dàn xếp dự thầu, thoả thuận với nhau về giá bỏ thầu, vi phạm các quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. Vậy, pháp luật hình sự quy định như thế nào về tội "Vi phạm các quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng"? Cần có những giải pháp gì để đấu tranh phòng và chống tội phạm này? Bạn đọc P.Q. hỏi.
Ảnh minh họa.
Liên quan đến vấn đề này, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết tội "Vi phạm các quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" được quy định tại Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Theo quy định của Luật Đấu thầu thì lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp đối với: Dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập,...
Quy trình lựa chọn nhà thầu đối với đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế theo Điều 38 Luật Đấu thầu được thực hiện như sau: Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; Tổ chức lựa chọn nhà thầu; Đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng; Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu; Hoàn thiện, ký kết hợp đồng.
Hành vi dàn xếp dự thầu, thoả thuận với nhau về giá bỏ thầu là vi phạm tính công khai, minh bạch, khách quan trong hoạt động đấu thầu, là hành vi thông thầu gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, vi phạm về chế độ quản lý tài sản nhà nước, gây bất bình đẳng trong xã hội, làm giảm sút niềm tin của người dân với các cấp chính quyền.
Bởi vậy, hành vi vi phạm này sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015. cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:
Điều 222. Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng 1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu; b) Thông thầu; c) Gian lận trong đấu thầu; d) Cản trở hoạt động đấu thầu; đ) Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu; e) Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu; g) Chuyển nhượng thầu trái phép. 2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a) Vì vụ lợi; b) Có tổ chức; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; đ) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng. 3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì các hành vi vi phạm Luật Đấu thầu như: Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu; Thông thầu; Gian lận trong đấu thầu; Cản trở hoạt động đấu thầu; Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu; Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu; Chuyển nhượng thầu trái phép mà gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 222 Bộ luật Hình sự với hình phạt có thể tới 12 năm tù.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm quy định về đấu đến mức phải xử lý hình sự như: Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn có những sơ hở thiếu sót trong việc mời thầu, nhận hồ sơ thầu, chấm thầu, kiểm soát trong quá trình tổ chức đấu thầu; quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu chưa được triển khai hiệu quả ở nhiều địa phương; một bộ phận cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống, tham ô, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ để trục lợi; việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện xử lý với các vi phạm với nhóm tội phạm về chức vụ chưa kịp thời, còn có những khó khăn, bị cản trở vì các mối quan hệ, vị trí công tác của người vi phạm; các đối tượng vi phạm có chức vụ, có hiểu biết và nhiều mối quan hệ nên luôn tìm cách che giấu hành vi và gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện và xử lý vi phạm.
Để đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm thì phải tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội thì mới kiểm soát được tình hình.
Đối với các tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ nói chung và tội phạm vi phạm về đấu thầu nói riêng thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây để đấu tranh phòng và chống tội phạm:
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, đặc biệt là chính sách công và các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống tham nhũng, về quản lý tài sản công, quản lý về dầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản công theo hướng chặt chẽ, khoa học, hiệu quả và có tính khả thi, có phân cấp, phân quyền, quy định rõ trách nhiệm cụ thể và tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát để pháy hiện và xử lý sai phạm;
- Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ, công chức;
- Tăng cường cơ chế giám sát, tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản công;
- Cần làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, lựa chọn, bồi dưỡng người đủ phẩm chất, có trình độ, có đạo đức và có bản lĩnh để giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý tài sản nhà nước;
- Cần tiếp tục cải cách tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
- Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có hành vi vi phạm quy định về đấu thầu.
HỒNG HẠNH
An Giang: Kẻ sát hại bé gái 7 tháng tuổi đối diện với nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Tháng 11/2021 toàn quốc xảy ra hơn 3.000 vụ phạm tội về trật tự xã hội
(LSVN) - Thực hiện Nghị định số 94/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê, Bộ Công an công bố số liệu (sơ bộ) về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; tình hình tai nạn giao thông, cháy, nổ và xử lý hành chính về trật tự an toàn giao thông tháng 11 năm 2021 (từ ngày 15/10/2021 đến ngày 14/11/2021).
Cụ thể, về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tháng 11/2021 (từ ngày 15/10/2021 đến ngày 14/11/2021) số vụ phạm tội về trật tự xã hội: Toàn quốc xảy ra 3.250 vụ; khám phá 2.988 vụ; bắt giữ, xử lý 5.839 đối tượng; tỷ lệ khám phá đạt 91,94%; triệt phá 50 băng, nhóm. So với tháng 10/2021, tăng 130 vụ (+4,17%), tăng 250 số vụ khám phá (+9,13%), tăng 508 số đối tượng bị bắt giữ, xử lý (+9,53%), tỷ lệ khám phá tăng 4,18%, giảm 30 số băng, nhóm bị triệt phá (-37,50%).
Biểu đồ tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội tháng 11/2021.
Số vụ phạm tội về trật tự quản lý kinh tế: Toàn quốc xảy ra 329 vụ, so với tháng 10/2021 giảm 26 vụ (-7,32%).
Toàn quốc xảy ra 36 vụ phạm tội về môi trường, so với tháng 10/2021 giảm 11 vụ (-23,40%).
Số vụ phạm tội về ma túy: Toàn quốc xảy ra 1.468 vụ, so với tháng 10/2021 giảm 420 vụ (-22,25%).
Công tác truy nã: Toàn quốc đã bắt, vận động đầu thú, thanh loại 436 đối tượng truy nã, 126 đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm. So với tháng 10/2021, số đối tượng truy nã đã bắt, vận động đầu thú và thanh loại giảm 197 đối tượng (-31,12%), số đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm bị bắt, vận động đầu thú và thanh loại giảm 43 đối tượng (-25,44%).
Về tình hình tai nạn giao thông, cháy, nổ và xử lý hành chính về trật tự an toàn giao thông tháng 11 năm 2021 (từ ngày 15/10/2021 đến ngày 14/11/2021), toàn quốc xảy ra 1.178 vụ, làm chết 559 người, bị thương 841 người. So với tháng 10/2021, tăng 380 vụ (+47,62%); tăng 182 người chết (+48,28%); tăng 268 người bị thương (+46,77%).
Biểu đồ số liệu về tình hình tai nạn giao thông tháng 11/2021.
Xử lý hành chính về trật tự an toàn giao thông: Toàn quốc xảy ra 216.321 vụ vi phạm trật tự an toàn giao thông bị xử lý; xử phạt 218,92 tỷ đồng; tạm giữ 29.560 ô tô, mô tô, xe máy. So với tháng 10/2021, tăng 40.722 vụ (+23,19%), số tiền phạt thu được tăng 32,59 tỷ đồng (+17,49%), tăng 4.573 số ô tô, mô tô, xe máy bị tạm giữ (+18,30%).
Tình hình cháy, nổ:
- Toàn quốc xảy ra 132 vụ cháy, làm 02 người chết, 13 người bị thương, tài sản thiệt hại sơ bộ ước tính 4,99 tỷ đồng. So với tháng 10/2021, giảm 13 vụ (-8,97%), tăng 08 người bị thương, tài sản thiệt hại sơ bộ ước tính giảm 7,89 tỷ đồng.
- Toàn quốc xảy ra 01 vụ nổ, làm 01 người chết, không có người bị thương.
DUY ANH
Hà Nội sẽ có 3 tuyến xe buýt điện đầu tiên trong tháng 12
Rút ngắn thời hạn thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành
(LSVN) - Ngày 30/11/2021, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư 13/2021/TT-BVHTTDL sửa đổi Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL hướng dẫn Luật Du lịch.
Ảnh minh họa.
Theo đó, Thông tư 13/2021/TT-BVHTTDL sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 7 Thông tư số 06/2017/TT-BVHTTDL trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng, cơ quan cấp phép ban hành quyết định thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Quyết định thu hồi giấy phép được gửi đến doanh nghiệp, cơ quan chức năng về thanh tra, kiểm tra, cơ quan nhà nước về xuất nhập cảnh, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Quyết định thu hồi giấy phép cũng được công bố trên cổng thông tin điện tử của cơ quan cấp phép và trang mạng quản lý doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Trước đây, thời hạn cơ quan cấp phép ban hành quyết định thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng. Như vậy, Thông tư mới đã rút ngắn thời hạn thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành so với trước.
Ngoài ra, Thông tư cũng sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 3 Điều 6, cụ thể sau 30 ngày, kể từ ngày đăng quyết định thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành trên cổng thông tin điện tử của cơ quan cấp phép và trang mạng quản lý doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, trường hợp không có khiếu nại, tố cáo liên quan đến nghĩa vụ đối với khách du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch thì cơ quan cấp phép có văn bản gửi ngân hàng để doanh nghiệp được rút tiền ký quỹ; trường hợp có khiếu nại, tố cáo liên quan đến nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với khách du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch thì cơ quan cấp phép phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền liên quan giải quyết theo quy định của pháp luật;”
Thông tư 13/2021/TT-BVHTTDL có hiệu lực từ ngày 30/11/2021.
HÀ ANH
Trình tự, thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Cục Cảnh sát giao thông đề xuất chuyển hồ sơ phạt nguội về địa phương
(LSVN) - Cục Cảnh sát giao thông đề xuất chuyển hồ sơ phạt nguội về địa phương để giải quyết, tránh tình trạng người vi phạm phải đi lại nhiều lần đến nơi bị phát hiện vi phạm để làm việc.
Ảnh minh họa.
Ngày 01/12, đại diện Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an) cho biết đã kiến nghị sửa đổi Nghị định 100/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt.
Theo đó, Cục đề xuất trường hợp phát hiện vi phạm giao thông bằng hệ thống camera (phạt nguội) ở tỉnh này song tài xế cư trú tại tỉnh khác (hoặc giữa các huyện khác nhau), cảnh sát sẽ chuyển kết quả thu thập đến cơ quan cấp dưới hoặc cơ quan cùng cấp nơi người vi phạm cư trú.
Tài xế sẽ đến trụ sở cơ quan chức năng ở địa phương để giải quyết, nộp phạt qua Cổng dịch vụ công Quốc gia, tránh phải đi lại nhiều lần.
Theo quy định hiện hành, tài xế vi phạm giao thông phải đến trụ sở đơn vị phát hiện vi phạm (thông qua hệ thống camera) để ký biên bản, do vậy thời gian qua nhiều tài xế phải di chuyển quãng đường xa, thậm chí đi lại nhiều lần mới hoàn thiện được thủ tục nộp phạt vi phạm hành chính.
Bộ Giao thông Vận tải là cơ quan được Chính phủ giao chủ trì việc lấy ý kiến và trình dự thảo sửa đổi Nghị định 100/2019/NĐ-CP để ban hành vào đầu năm 2022.
MAI HUỆ