Hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa theo tố tụng hình sự Việt Nam
(LSVN) - Vai trò, vị trí của người bào chữa trong tố tụng hình sự ngày càng trở nên quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, trong việc bảo đảm pháp luật được thực thi đúng, đủ, hiệu quả, phòng, chống oan sai. Do đó, việc bảo đảm các quyền của người bào chữa có ý nghĩa to lớn. Mặc dù vậy, cả trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện, việc này lại thể hiện nhiều bất cập, dẫn đến người bào chữa không thể thực hiện đầy đủ các quyền của mình khi tham gia tố tụng.
Người bào chữa có thể là Luật sư, trợ giúp viên pháp lý, Bào chữa viên nhân dân và người đại diện của người bị buộc tội. Trong đó, Luật sư là chủ thể có nhiều khác biệt và cũng là nhóm người bào chữa có vị trí, vai trò và hiệu quả bào chữa tốt nhất. Người bào chữa thông qua hoạt động bào chữa của mình, đưa ra lời lẽ, lập luận, chứng cứ, tài liệu giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hiểu được toàn diện bản chất của sự việc. Do đó, bảo đảm quyền của người bào chữa chính là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp luật định, tạo điều kiện cần thiết thuận lợi cho người bào chữa thực hiện đầy đủ, nhanh chóng, toàn diện các quyền luật định của mình.
![]()
Ảnh minh họa.
1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền của người bào chữa
Quy định các quyền của người bào chữa:
Theo Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, người bào chữa có rất nhiều quyền như: Gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;...
Từ đó có thể thấy BLTTHS 2015 đã quy định có sự thay đổi theo hướng mở rộng quyền của người bào chữa so với BLTTHS 2003. Cụ thể, ngoài cơ quan tiến hành tố tụng, người bào chữa cũng là chủ thể có quyền thu thập chứng cứ. BLTTHS 2015 quy định việc người bào chữa có mặt ở các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết và hoạt động điều tra khác là quyền của người bào chữa và quyền này không lệ thuộc vào sự đồng ý của Điều tra viên như trong BLTTHS 2003. Chưa hết, quyền hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can sau khi kết thúc việc lấy lời khai của người có thẩm quyền cũng được ghi nhận cụ thể. Và để thực hiện các quyền đó, người bào chữa đòi hỏi phải “được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định”.
Ngoài ra, một số quyền mới của người bào chữa là “Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”, “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”...
Ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự, đây là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất vai trò, vị trí của người bào chữa. Thông qua hoạt động tranh tụng, người bào chữa thể hiện kết quả của cả quá trình từ khi tham gia bào chữa và cũng là giai đoạn có ý nghĩa quyết định. Theo đó, người bào chữa có quyền: Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này. Để bảo đảm những quyền này, pháp luật tạo ra những cơ chế bảo đảm bằng các quy định mang tính nguyên tắc, thủ tục phải tiến hành hay trực tiếp quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà nhất là Tòa án.
Trách nhiệm bảo đảm quyền cho người bào chữa của Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan điều tra
Thứ nhất, đối với Tòa án: Trước tiên, Tòa án bảo đảm quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, định giá, phiên dịch, dịch thuật, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế. Theo đó, BLTTHS quy định việc giải quyết đề nghị thay đổi và người bào chữa được phép đề nghị thay đổi và nêu rõ lý do. Một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, dịch thuật, người giám định, định giá, người chứng kiến. Nếu có lý do cho rằng họ không vô tư thì sẽ bị thay đổi.
Tiếp theo, Tòa án bảo đảm quyền được thu thập, đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu, được đọc, ghi chép, sao chụp nhưng tài liệu trong hồ sơ vụ án. Theo Điều 305 BLTTHS, Chủ tọa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu không. Nếu có người vắng mặt thì phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không. Việc thu thập chứng cứ, tài liệu là yêu cầu cơ bản của người bào chữa nhằm thực hiện tốt chức năng của mình. Song song với đó là việc được tiếp cận các tài liệu, chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh chức năng bào chữa, người bào chữa còn có trách nhiệm tuân thủ pháp luật, do đó, việc tiếp xúc các chứng cứ, tài liệu do các cơ quan chức năng thu thập là không thể thiếu.
Tất cả những quyền nêu trên chỉ thật sự có ý nghĩa nêu quyền “tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa” được bảo đảm. Xét hỏi và tranh tụng là những hoạt động trong trình tự xét xử, người bào chữa có quyền đưa ra câu hỏi, đưa ra các lập luận, ý kiến phản biện. Để bảo đảm quyền này, BLTTHS 2015 quy định rõ “người bào chữa có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu làm rõ sự thật khách quan”. Cuối cùng, người bào chữa được bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ hai, đối với Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát: Trước hết, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát phải bảo đảm sự có mặt của người bào chữa khi tiến hành các hoạt động tố tụng. Theo đó, phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 48 giờ đối với trường hợp khác. Đây là quy định tối thiểu, căn cứ thực tế, các cơ quan này có thể thông báo sớm hơn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người bào chữa. Thực hiện đăng ký bào chữa, bảo đảm người bào chữa được tiếp xúc với người bị buộc tội. Tiếp theo, bảo đảm cho người bào chữa thực hiện thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, đồng thời đánh giá, nhận xét về các chứng cứ, tài liệu đó.
Ngoài ra, các cơ quan, người tiến hành tố tụng còn có trách nhiệm bảo đảm nhiều quyền khác của người bào chữa. Ở đây, tác giả chỉ liệt kê một số trách nhiệm bảo đảm cơ bản và trên thực tế dễ bị xâm phạm.
Giám sát và xử lý hành vi xâm phạm quyền người bào chữa
Về kiểm tra, giám sát, Điều 33 BLTTHS 2015 quy định:
“Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật”.
Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật. Về xử lý vi phạm, Điều 91 Luật Luật sư 2006 quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn mà có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hoặc cản trở luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thực hiện quyền, nghĩa vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Những bất cập trong quy định về bảo đảm quyền của người bào chữa
Thứ nhất, quyền thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa chưa được quy định triệt để. Mặc dù đã được quy định là “quyền” nhưng người bào chữa tiến hành các quyền này khá thụ động. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không nhiệt tình, có hành vi che giấu, không cung cấp cho người bào chữa. Bởi vì hiện nay pháp luật không có quy định về trách nhiệm của các chủ thể khi người bào chữa thu thập chứng cứ, tài liệu.
Thứ hai, quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội” còn được quy định chung chung, chưa cụ thể. Theo đó, thời gian, thời hạn, địa điểm, cơ chế giám sát việc gặp, trao đổi giữa người bào chữa và người bị buộc tội chưa được quy định, dẫn đến việc lạm dụng, gây khó dễ từ phía cơ quan chức năng. Đồng thời, việc gặp riêng, bảo đảm bí mật trong nội dung trao đổi cũng chưa tốt. Theo đó, cần quy định người bào chữa được phép gặp riêng người bị buộc tội bởi lẽ điều này có thể bảo đảm bí mật, chất lượng của việc bào chữa và đồng thời, các hành vi trái pháp luật của người bào chữa cũng đã có chế tài xử lý, họ phải biết mình được phép làm gì, không được phép làm gì, luật cấm điều gì để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.
Thứ ba, có quy định quyền, cơ chế bảo đảm nhưng thiếu cơ chế xử lý vi phạm. Các quyền, trách nhiệm của các chủ thể đã được quy định, nhưng việc xử lý hành vi xâm phạm lại chưa cụ thể, rõ ràng. Điều này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền của người bào chữa chưa được bảo đảm tốt như hiện nay. Trong nhiều trường hợp, nếu vượt quá phạm vi hay khả năng, người bào chữa cũng chỉ có quyền “đề nghị” cơ quan chức năng và điều này phụ thuộc vào sự chủ quan của các cơ quan đó.
2. Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bào chữa
Với sự đổi mới, quá trình cải cách tư pháp đã mang đến nhiều thuận lợi cho người bào chữa thực hiện quyền của mình. Mức độ bảo đảm các quyền cũng được nâng lên đáng kể. Các cơ quan, người tiến hành tố tụng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia và thực hiện các quyền của mình. Đặc biệt, thực tiễn ở các Tòa án đã thực sự coi trọng vai trò và sự hiện diện của người bào chữa trong tố tụng. Thủ tục đăng ký bào chữa đơn giản, nhanh gọn, sao chép, đọc hồ sơ theo yêu cầu, người bào chữa có thể lựa chọn chụp hoặc photo chứng cứ, tài liệu, tiếp nhận đầy đủ các chứng cứ, yêu cầu và giải quyết xác đáng các yêu cầu đó.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều rào cản, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền của người bào chữa, có thể kể đến một số hạn chế cơ bản như: Quyền thu thập, tiếp cận, đánh giá chứng cứ, tài liệu còn khó khăn; Quyền gặp người bị buộc tội, tham gia các hoạt động tố tụng chưa đầy đủ, triệt để, còn tình trạng thông báo chậm, bất ngờ, tiến hành không thông báo, không có mặt người bào chữa; Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa bị hạn chế, giới hạn thời gian, cắt giảm tranh luận, thậm chí không cho tiếp tục hỏi, tranh luận…
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng nhìn chung có hai nguyên nhân chính như sau: Thứ nhất, nhận thức, suy nghĩ của một bộ phận người tiến hành tố tụng vẫn chưa thực sự coi trọng vị trí, vai trò của người của người bào chữa. Thứ hai, quy định của pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Để nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bào chữa, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp, trong đó, yêu cầu trước hết là hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ phù hợp, đủ chi tiết, đủ toàn diện trong vấn đề này.
Theo đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, về quyền của người bào chữa: Cần bổ sung những quy định cần thiết để khắc phục những điểm bất hợp lý, bảo đảm quy định được phù hợp và khả thi. Rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật, cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Hoàn thiện cơ chế bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nói chung, người bào chữa nói riêng. Trong đó, tập trung một số đề xuất cụ thể như sau:
- Quyền hỏi người bị buộc tội: Điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội” nhưng điểm b lại quy định “nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng ý thì được hỏi. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi”. Hai quy định này vừa trùng lặp, vừa mâu thuẫn với nhau. Một mặt, khẳng định việc hỏi là quyền của người bào chữa, mặt khác lại quy định người bào chữa “có thể hỏi” và cần sự đồng ý của người tiến hành tố tụng. Như vậy là không bảo đảm. Theo đó, cần quy định rõ: “Người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội. Trong các buổi lấy lời khai người bị bắt, tạm giữ, hỏi cung bị can, người bào chữa được hỏi khi người tiến hành tố tụng đã hỏi xong”. Có như vậy, mới khắc chế được tình trạng gây khó dễ, cản trở việc gặp, hỏi của người bào chữa.
- Quyền tham gia hoạt động tố tụng: BLTTHS quy định người bào chữa được tham gia rất nhiều hoạt động tố tụng khác nhau và cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thông báo về thời gian, địa điểm trước một thời gian nhất định. Tuy nhiên, BLTTHS mới chỉ quy định trường hợp người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa (trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa). Vậy các hoạt động khác thì sao? Để bảo đảm quyền cũng như hiệu quả bào chữa, tôi cho rằng cần quy định trong một số hoạt động không mang tính cấp thiết như hỏi cung, lấy lời khai, đối chứng… cũng cần có quy định tương tự.
- Quyền xem biên bản về hoạt động có sự tham gia của mình, quyết định có liên quan đến người mà mình bào chữa: Quy định này cũng chưa thật sự hợp lý và ở một góc độ nhất định đang ảnh hưởng đến việc bào chữa. Bởi vì, sự vắng mặt của người bào chữa trong các hoạt động tố tụng là rất phổ biến mặc dù đã được thông báo về thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, người bào chữa vẫn cần được xem biên bản của hoạt động đó nhằm phục vụ cho việc bào chữa. Thông qua việc xem xét, người bào chữa có thể phát hiện các sai sót, các điểm bất hợp lý và các chứng cứ khác. Do đó, cần quy định “người bào chữa có quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng mà theo quy định người bào chữa được phép tham gia…”.
- Quyền đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, người tham gia tố tụng khác: Theo đó, người bào chữa có quyền đề nghị và đề nghị này sẽ được xem xét có được chấp nhận hay không. Quy định này là hợp lý, tuy nhiên hiện nay chưa có cơ chế bảo đảm khách quan trong vấn đề này. Việc quyết định vẫn còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của Thẩm phán và HĐXX. Do đó, cần phải đưa ra cơ chế, có thể là hướng dẫn chi tiết “khi nào thì phải triệu tập thêm người làm chứng”, chẳng hạn: “Người làm chứng là người chứng kiến phần lớn vụ việc, có lời khai chưa rõ ràng, chưa thống nhất với các lời khai khác… nghiêm cấm việc cố tình không triệu tập người làm chứng có lời khai có lợi cho bị cáo…”.
Thứ hai, về nghĩa vụ của các cơ quan, người tiến hành tố tụng: Theo đó, cần quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa bằng cách thêm quy định “Bảo đảm cho người bào chữa thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình” trong các Điều về nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế giám sát và chế độ trách nhiệm đối với vi phạm quyền người bào chữa: Cần Luật hóa các văn bản hướng dẫn về chế tài xử lý đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng trong trường hợp “cản trở” người bào chữa thực hiện quyền và nghĩa vụ. Cần có chế tài đủ mạnh bảo đảm tính nghiêm minh trong vấn đề này. Theo đó, hành vi cản trở thực hiện quyền của người bào chữa nhìn chung đều ảnh hưởng đến kết quả bào chữa, từ đó ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Do đó, cần xem đây là hành vi “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” và người có hành vi này phải chịu xử lý. Tùy tính chất, mức độ và hậu quả mà có thể bị xử lý hành chính, kỷ luật và xem xét quy định chế tài hình sự đối với hành vi này.
Như vậy, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của người bào chữa đối với người bị buộc tội, đối với việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý thì cần tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến việc bảo đảm quyền của người bào chữa./.
VĂN LINH
TÒA ÁN QUÂN SỰ KHU VỰC HẢI QUÂN
Một số vấn đề về áp dụng án lệ, tập quán và lẽ công bằng ở Việt Nam hiện nay
Trường hợp nào được tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh?
(LSVN) – Theo quy định của pháp luật hiện hành, trường hợp nào được coi là bất khả kháng do dịch bệnh; trường hợp nào thì được tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh. Bạn đọc L.A. hỏi.
Căn cứ theo Thông tư liên tịch 01/2021/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC do Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính đã ban hành quy định chi tiết việc áp dụng căn cứ tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh theo điểm c khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 229 và điểm d khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự. Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2021.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông tư nêu rõ, khi áp dụng căn cứ tạm đình chỉ vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh quy định tại điểm c khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 229 và điểm d khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của pháp luật khác có liên quan.
Đồng thời, phải bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; bảo đảm thận trọng khi quyết định áp dụng đối với từng vụ việc, vụ án cụ thể, nghiêm cấm việc lạm dụng; kiểm soát tội phạm, không gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ việc, vụ án khi được phục hồi.
Cụ thể, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ được tạm đình chỉ giải quyết vụ việc, vụ án vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh quy định tại điểm c khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 229 hoặc điểm d khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự khi có đủ các căn cứ sau:
- Đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật mà không thể tiến hành được một hoặc một số hoạt động tố tụng để kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; kết thúc điều tra hoặc quyết định việc truy tố do thuộc một trong các trường hợp quy định;
- Đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; thời hạn điều tra hoặc thời hạn quyết định việc truy tố.
Ngoài ra, các trường hợp bất khả kháng do dịch bệnh như sau:
- Người tham gia tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc địa điểm cần tiến hành các hoạt động tố tụng trong vùng được ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm;
- Người tham gia tố tụng đang bị cách ly y tế theo quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền do bị mắc bệnh dịch thuộc nhóm A hoặc do thuộc trường hợp khác liên quan đến bệnh dịch thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm;
- Người tham gia tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc địa điểm cần tiến hành các hoạt động tố tụng trong vùng được Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế công bố dịch đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
PHƯƠNG HOA
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật
Đảng viên không được bao che, tiếp tay cho các hoạt động mê tín, dị đoan
(LSVN) – Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW hướng dẫn việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm. Một trong những nội dung đáng lưu ý của Hướng dẫn này là việc Đảng viên không được bao che, tiếp tay cho các hoạt động mê tín, dị đoan.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo Điều 19 Quy định 37-QĐ/TW: “Mê tín, hoạt động mê tín; ủng hộ hoặc tham gia các tôn giáo bất hợp pháp hoặc lợi dụng các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi.”, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định này như sau:
Đảng viên không được:
- Có hành vi mê tín dị đoan, rải, đốt đồ mã (tiền, vàng, bạc, phương tiện, vật dụng, hình người, động vật,...) với số lượng lớn, gây lãng phí, ô nhiễm môi trường, cháy, nổ...
- Bao che, tiếp tay cho các hoạt động mê tín, dị đoan. Xem số, xem bói, yểm bùa, trừ tà và những việc mê tín dị đoan khác (tin vào thần linh, ma quỷ, những việc không có thật do tin đồn nhảm nhí mà có); hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói.
- Tổ chức, tham gia hoặc vận động, ủng hộ cho cá nhân, tổ chức lập mới và xây dựng đền, chùa, miếu thờ, điện thờ, nơi thờ tự của các tôn giáo khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Trực tiếp ủng hộ hoặc vận động tổ chức, cá nhân khác ủng hộ dưới mọi hình thức cho các hoạt động tôn giáo trái quy định. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ.
Tổ chức, vận động, lôi kéo, xúi giục, mua chuộc, ép buộc người khác tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra hoặc các hoạt động do các tôn giáo tổ chức khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
TIẾN HƯNG
Đảng viên không được phát tán trên mạng xã hội bài viết kích động chống Đảng, chống Nhà nước
Học sinh lớp 1, 2 làm bài kiểm tra định kỳ bằng hình thức trực tiếp
(LSVN) - Đối với lớp 1, lớp 2, việc tổ chức bài kiểm tra định được tổ chức bằng hình thức trực tiếp. Điều này là nhằm đánh giá thực chất kết quả học tập của học sinh và tăng trách nhiệm quản lý của các cấp. Trong điều kiện phòng, chống dịch Covid-19, cơ sở giáo dục phải thực hiện các giải pháp linh hoạt, phù hợp với thực tế và đảm bảo an toàn trong phòng dịch.
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành công văn số 5766/BGDĐT-GDTT ngày 13/12/2021 về việc "Hướng dẫn tổ chức dạy học, đánh giá học sinh Tiểu học thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông ứng phó dịch Covid-19".
![]()
Ảnh minh họa.
Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn, chỉ thực hiện việc đánh giá định kỳ khi học sinh đã được học nội dung chương trình các môn học, hoạt động giáo dục tương ứng; đã được giáo viên tổ chức thực hiện đánh giá thường xuyên trong quá trình học tập và được tổng hợp kết quả đánh giá tại các thời điểm theo quy định (giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học).
Các nhà trường có thể tổ chức đánh giá định kỳ linh hoạt vào các thời điểm phù hợp với từng đối tượng và điều kiện tổ chức dạy học thực tế tại địa phương.
Đối với lớp 1, lớp 2, việc tổ chức bài kiểm tra định được tổ chức bằng hình thức trực tiếp. Điều này là nhằm đánh giá thực chất kết quả học tập của học sinh và tăng trách nhiệm quản lý của các cấp. Trong điều kiện phòng, chống dịch Covid-19, cơ sở giáo dục phải thực hiện các giải pháp linh hoạt, phù hợp với thực tế và đảm bảo an toàn trong phòng dịch.
Cụ thể, nhà trường cần lập kế hoạch thời gian thực hiện bài kiểm tra định kỳ; tổ chức họp với cha mẹ học sinh để phổ biến, hướng dẫn, tạo sự đồng thuận về phương án thực hiện. Các trường cần chia nhỏ số học sinh, số lớp để tổ chức hướng dẫn, ôn tập, bổ sung, củng cố kiến thức, định hướng nội dung "cốt lõi" trước khi thực hiện bài kiểm tra định kỳ đối với môn Toán, môn Tiếng Việt để đánh giá học sinh cuối học kỳ I và cuối năm học.
Trong trường hợp bất khả kháng, tại thời điểm kiểm tra định kỳ, học sinh không thể đến trường để làm bài kiểm tra bằng hình thức trực tiếp thì cơ sở giáo dục báo cáo phương án, điều kiện tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra định kỳ bằng hình thức trực tuyến về Phòng Giáo dục và Đào tạo để được kiểm tra các điều kiện đảm bảo theo quy định trước khi thực hiện. Ở trường hợp này, theo quy định trong Thông tư 09/2021/TT-BGDĐT về Quản lý và tổ chức dạy học trực tuyến, người đứng đầu cơ sở giáo dục phổ thông sẽ quyết định lựa chọn hình thức kiểm tra, đánh giá định kỳ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bảo đảm việc kiểm tra, đánh giá, chính xác, công bằng, khách quan, trung thực.
Đối với các lớp 3, lớp 4, lớp 5, bài kiểm tra định kỳ cuối học kỳ I và cuối năm học được tổ chức linh hoạt bằng các hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định và phù hợp với tình hình phòng dịch Covid-19 tại địa phương vào thời điểm tổ chức đánh giá. Các nhà trường thực hiện bài kiểm tra định kỳ đối với các môn học: Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lý, Ngoại ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc. Riêng khối lớp 4, lớp 5 có thêm bài kiểm tra định kỳ vào giữa học kỳ I và giữa học kỳ II đối với môn Toán, môn Tiếng Việt.
Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu việc tổ chức bài kiểm tra định kỳ phải được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, đánh giá đúng chất lượng học tập của người học. Nội dung đề kiểm tra phải phù hợp với yêu cầu cần đạt về nội dung học tập và các thành phần năng lực của môn học. Câu hỏi, bài tập kiểm tra phải được thiết kế đảm bảo các mức theo quy định, tập trung vào nội dung học tập "cốt lõi" theo công văn "Hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học năm học 2021-2022 ứng phó với dịch Covid-19" mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành ngày 10/9/2021.
MINH HIỀN
Quảng Trị xin trả lại lô vaccine trong diện gia hạn
Tăng mức ký quỹ với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động
(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 112/2021/NĐ-CP ngày 10/12/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong đó, quy định tăng mức ký quỹ của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, Điều 23 Nghị định 112/2021 quy định về mức ký quỹ của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động như sau:
- Doanh nghiệp thực hiện ký quỹ 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng) tại một ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (sau đây viết tắt là ngân hàng nhận ký quỹ). Hiện hành, mức tiền ký quỹ là 1.000.000.000 (Một tỷ đồng) và doanh nghiệp dịch vụ chỉ được ký quỹ tại ngân hàng thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam.
- Doanh nghiệp dịch vụ giao nhiệm vụ cho chi nhánh thực hiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải ký quỹ thêm 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng) đối với mỗi chi nhánh được giao nhiệm vụ. Đây cũng là nội dung mới được bổ sung.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Như vậy, từ ngày 01/01/2022, mức ký quỹ của doanh nghiệp là 02 tỷ đồng tại một ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Về quản lý tiền ký quỹ, Nghị định nêu rõ doanh nghiệp và ngân hàng nhận ký quỹ ký kết hợp đồng ký quỹ bao gồm các nội dung sau: tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ, người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, người đại diện hợp pháp của ngân hàng nhận ký quỹ; số tiền ký quỹ; mục đích ký quỹ; lãi suất tiền gửi ký quỹ theo thỏa thuận; hình thức trả lãi tiền ký quỹ; sử dụng tiền ký quỹ; rút tiền ký quỹ; tất toán tài khoản ký quỹ; trách nhiệm của các bên liên quan và các nội dung khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngân hàng nhận ký quỹ xác nhận bằng văn bản về việc ký quỹ của doanh nghiệp theo Mẫu số 03 Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này. Tiền ký quỹ được ngân hàng nhận ký quỹ phong tỏa theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp được nhận lại tiền ký quỹ trong các trường hợp sau:
- Doanh nghiệp không nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Doanh nghiệp nộp lại 02 bản chính giấy xác nhận ký quỹ cho ngân hàng nhận ký quỹ để nhận lại tiền ký quỹ.
- Doanh nghiệp không được cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hoặc doanh nghiệp đã ký quỹ tại tài khoản khác và đề nghị tất toán tài khoản đã ký quỹ trước đó hoặc doanh nghiệp dịch vụ đã giải thể theo quy định.
- Doanh nghiệp đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài sau khi nộp lại Giấy phép hoặc bị thu hồi Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Doanh nghiệp dịch vụ chấm dứt giao nhiệm vụ hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cho chi nhánh hoặc chi nhánh chấm dứt hoạt động.
DUY ANH
Vi phạm quy định về đấu thầu: Nguyên nhân và giải pháp
Vụ Giám đốc uống thuốc sâu tự tử tại toà: Cần hướng đến những bản án công bằng, thấu tình đạt lý
(LSVN) - Một bản án dù có đúng pháp luật nhưng lập luận trong bản án không đủ thuyết phục các đương sự thì đó là thiếu sót của hội đồng xét xử, thể hiện năng lực của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Bởi vậy, khi giải quyết các vụ án dân sự cũng như hình sự thì các Thẩm phán cần hướng đến những bản án công bằng sao cho thấu tình đạt lý, hướng đến mục tiêu dù kết quả vụ án thế nào thì các đương sự cũng hiểu và tôn trọng kết quả đó.
Chủ tịch nước yêu cầu làm rõ vụ việc
Liên quan đến vụ việc vợ, chồng ông Võ Văn Cường, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Land Hà Hải, là bị đơn trong vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bồi thường hợp đồng" đã uống thuốc diệt côn trùng tự vẫn ngay tại phiên tòa vì cho rằng Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn thiếu công tâm khi xét xử vụ án. Vừa qua Văn phòng Chủ tịch nước vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu làm rõ thông tin về vụ việc xảy ra tại Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Theo đó, sau khi xem xét thông tin trên, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao chỉ đạo, kiểm tra làm rõ nội dung thông tin vụ việc nêu trên, báo cáo với Chủ tịch nước về kết quả kiểm tra trước ngày 20/12.
![]()
Vợ ông Cường cũng định uống thuốc tự tử nhưng được người thân kịp thời ngăn chặn.
Cần hướng đến những bản án công bằng, thấu tình đạt lý
Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp đánh giá, hành vi của Giám đốc - nguyên đơn trong vụ án dân sự này thể hiện sự bức xúc đối với kết quả xét xử sơ thẩm, tuy nhiên đây là hành vi thiếu kiểm chế, thiếu suy xét, không tỉnh táo và có thể là hành động dại dột thiệt thân.
Theo thông tin sự việc, ngay sau khi chủ tọa phiên tòa tuyên án, ông Võ Văn Cường đã đứng dậy cho rằng toà thiếu công tâm trong quá trình xét xử, bỏ qua nhiều giấy tờ quan trọng mà phía mình cung cấp. Tiếp đó, ông này lấy từ túi áo một chai thuốc diệt côn trùng rồi uống để tự tử. Vợ ông Cường cũng lấy ra một chai thuốc diệt côn trùng khác để uống nhưng được người thân kịp thời hất đổ. Sau đó ông Cường được chuyển đến bệnh viện cấp cứu.
“Hành động của vợ chồng nguyên đơn trong vụ án này là phản ứng tiêu cực đối với bản án sơ thẩm. Hành vi cho thấy sự mất niềm tin vào kết quả giải quyết của tòa án. Tuy nhiên với hành động như vậy thì người thiệt hại đầu tiên chính là vợ chồng nguyên đơn. Với loại thuốc diệt cỏ như vậy thì hoàn toàn có thể thiệt mạng nếu như không được cấp cứu kịp thời. Nếu được cấp cứu, cứu sống thì cũng sẽ ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe và đời sống, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình”, Luật sư Cường nói.
Đây là hành vi có sự chuẩn bị từ trước và là chuyện hy hữu xảy ra tại phiên tòa. Nếu có sự tư vấn của Luật sư, của những người hiểu biết pháp luật thì có lẽ nguyên đơn đã không thực hiện hành vi "dại dột" như vậy bởi phiên tòa này chỉ là phiên tòa sơ thẩm. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để tòa án cấp tỉnh xem xét giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Thậm chí, pháp luật còn quy định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong trường hợp bản án sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết không đúng pháp luật.
Trường hợp quá trình giải quyết nguyên đơn có căn cứ cho thấy Thẩm phán hội đồng xét xử giải quyết không đúng pháp luật thì có quyền khiếu nại, tố cáo và kháng cáo bản án sơ thẩm. Trường hợp Thẩm phán không khách quan thì nguyên đơn có quyền đề nghị thay đổi Thẩm phán. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định rất nhiều quyền cho nguyên đơn và pháp luật có đầy đủ các quy định để xử lý đối với người tiến hành tố tụng có sai phạm.
Việc nguyên đơn tự tử tại tòa sau khi hội đồng xét xử tuyên bản án sơ thẩm là một hành động phản ứng tiêu cực, gây nhiều hệ lụy, có thể ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tố tụng nhưng trước tiên là thiệt hại đến sức khỏe, thậm chí đến tính mạng của đương sự.
Sau khi sự việc xảy ra, cơ quan chức năng cần xác minh làm rõ quá trình giải quyết vụ án này đồng thời thận trọng trong việc đánh giá lại vụ án. Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng có thể sẽ phải tường trình về sự việc... Nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy định về tố tụng dân sự thì tuỳ vào tính chất mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc có thể chịu các chế tài nghiêm khắc của pháp luật.
Trường hợp vợ chồng nguyên đơn tự tử (dù bất thành) nhưng không kháng cáo bản án sơ thẩm này thì vụ án dân sự sẽ kết thúc ở đây, toàn bộ phần thiệt thòi sẽ thuộc về nguyên đơn. Còn trường hợp nguyên đơn tỉnh táo, bình tĩnh, có sự tư vấn đúng đắn thì sẽ kháng cáo bản án sơ thẩm chứ không có hành động tiêu cực như vậy. Vụ việc này là một bài học cho những ai đủ bình tĩnh, thiếu sáng suốt trong quá trình tham gia tố tụng tại tòa án.
Qua vụ án này, cơ quan tố tụng nơi đây cũng cần rút kinh nghiệm, cần nắm bắt tâm lý của đương sự, giải quyết vụ việc khách quan để có những bản án thấu tình, đạt lý. Một bản án dù có đúng pháp luật nhưng lập luận trong bản án không đủ thuyết phục các đương sự thì đó là thiếu sót của hội đồng xét xử, thể hiện năng lực của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Bởi vậy, khi giải quyết các vụ án dân sự cũng như hình sự thì các Thẩm phán cần hướng đến những bản án công bằng sao cho thấu tình đạt lý, hướng đến mục tiêu dù kết quả vụ án thế nào thì các đương sự cũng hiểu và tôn trọng kết quả đó.
HỒNG HẠNH
Chủ tịch nước yêu cầu làm rõ vụ Giám đốc uống thuốc sâu tự tử tại toà

