Bộ luật Dân sự 2015: Bất cập trong quy định về lãi suất, phạm vi hợp đồng vay tài sản, hình thức hợp đồng

02/01/2019 17:05 | 5 năm trước

LSVNO - Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có nhiều quy định mới về phần lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, những quy định mới này theo hướng tăng mức lãi suất thỏa thuận và lãi suất phạt do chậm h...

LSVNO - Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có nhiều quy định mới về phần lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, những quy định mới này theo hướng tăng mức lãi suất thỏa thuận và lãi suất phạt do chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, điều này sẽ góp phần tạo cơ chế về lãi suất để nhằm thúc đẩy bên vay thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tuân thủ và kỷ luật hợp đồng trong giao dịch dân sự; bảo đảm hài hòa với mục đích quy định lãi suất là một trong những công cụ để điều tiết nền kinh tế, đặc biệt đối với thị trường vốn, tiền tệ và các mục đích kinh tế, xã hội khác.

Đồng thời, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự, từ đó thúc đẩy các chủ thể này tham gia tích cực hơn vào các quan hệ này. Ngoài ra, việc xác định mức lãi suất cao nhất trong giao dịch vay tài sản mà BLDS năm 2015 cho phép còn có ý nghĩa trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cho vay lãi nặng quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015; cấu thành cơ bản tội phạm này dựa trên quy định về mức lãi suất của BLDS năm 2015, theo đó, trong giao dịch dân sự mà người cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên, thì hành vi này bị coi là vi phạm pháp luật hình sự.

 

Bộ luật Dân sự 2015.

Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về nhận thức và áp dụng các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản, dẫn đến tình trạng cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó, các bên thỏa thuận về lãi suất, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng có tòa án xét xử chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm, nhưng cũng có tòa án chỉ chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm hợp đồng do phát sinh số tiền lãi chậm trả, vì cho rằng như vậy “phạt chồng phạt”. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một số quy định của BLDS năm 2015, các văn bản pháp luật có liên quan đến lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản và một số vướng mắc cần tháo gỡ.

Trường hợp vay nào áp dụng lãi suất theo quy định của BLDS năm 2015?

Theo quy định tại Điều 463 BLDS năm 2015, “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. 

Về cách tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, Điều 468 BLDS năm 2015 quy định:

 “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.

Như vậy, mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này là 20%/năm nên được xác định là 10%/năm tương ứng với 0,83 %/ tháng. Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, bên cạnh tiền gốc thì bên vay có trách nhiệm thanh toán cho bên cho vay các khoản lãi, bao gồm: lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng vay; lãi đối với phần tiền lãi chậm trả trong thời hạn hợp đồng vay và lãi trên nợ gốc quá hạn.

Mức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS năm 2015 mang tính “tĩnh”, nghĩa là chỉ áp đặt mức lãi suất trần cố định 20%, mức lãi suất này sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân hàng Nhà nước nữa. Việc quy định mức lãi suất này có nhiều thuận lợi, như: bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng; mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng. Tuy nhiên với quy định này, vấn đề đặt ra làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay?

Mặt khác, theo quy định trên, đối với những trường hợp vay nào thì sẽ áp dụng quy định lãi suất tại BLDS năm 2015, trường hợp vay nào thì áp dụng luật khác có liên quan? Luật có liên quan trong lĩnh vực này hiện nay chỉ có Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2018). Tuy nhiên, trong các Luật này lại có quy định khác so với BLDS năm 2015. Cụ thể, Điều 91 của Luật này quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, như sau:

“1. Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng”.

Vấn đề được đặt ra là lãi suất vay tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc các công ty tài chính có phải áp dụng theo BLDS năm 2015 không hay áp dụng trường hợp luật khác có liên quan quy định khác?

Vấn đề lãi suất khi người có nghĩa vụ chậm thi hành bản án, quyết định của tòa án khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án.

Khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015 quy định: Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”; theo khoản 2 Điều 468 thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468, đó là lãi suất theo thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Như vậy, đối với việc xác định lãi suất chậm thi hành bản án, quyết định của tòa án trong trường hợp tranh chấp không phải là tranh chấp hợp đồng vay tài sản thì mức lãi suất chậm trả sẽ áp dụng theo mức lãi suất nào? Khi bản án, quyết định xác định trách nhiệm của một bên đương sự có nghĩa vụ trả một khoản tiền cho bên kia, nếu áp dụng theo khoản 1 Điều 468 của BLDS năm 2015 để tính lãi suất cho các tranh chấp hợp đồng khác không phải là hợp đồng vay thì chưa phù hợp, vì khoản 1 Điều 468 tính lãi suất không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trong khi các tranh chấp hợp đồng khác không phải là khoản tiền vay.

Để tháo gỡ vấn đề về lãi suất nêu trên, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng mức lãi suất khi chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các loại tranh chấp hợp đồng dân sự (không phải là hợp đồng vay tài sản).

Phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản, bồi thường hợp đồng

Trên thực tế, nhiều hợp đồng có các quy định mức phạt không đúng với quy định nêu trên hoặc quy định chưa rõ để xác định. Chẳng hạn, có hợp đồng quy định “quá thời hạn thanh toán của các đợt 2, 3 mà bên B chưa thanh toán hết thì phải chịu lãi suất quá hạn 0,5% /ngày/số tiền chậm trả”; hoặc là “phải chịu khoản phạt bằng 0,03% mỗi ngày chậm thanh toán”; hoặc là “quá các thời hạn thanh toán bên B phải chịu phạt với lãi suất chậm trả bằng 150% của lãi vay VNĐ cho số tiền và số ngày trả chậm cùng mọi chi phí phát sinh do chậm thanh toán gây ra. Thời gian kéo dài tối đa không quá 15 ngày tiếp theo, quá thời hạn này mà bên B chưa thanh toán đủ tiền hàng cho bên A thì bên A có quyền…”.

Ngoài ra, với các hợp đồng vay tiền (hợp đồng mẫu) do các công ty tài chính phát hành hiện nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp nội dung phạt vi phạm hợp đồng như sau:

Ngày đến hạn thanh toán: Là ngày quý khách có nghĩa vụ thanh toán số tiền trả góp hàng tháng cho công ty tài chính. Ngày đến hạn thanh toán hàng tháng được quy định cụ thể tại hợp đồng tín dụng… Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Trong trường hợp quý khách vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong hợp đồng, quý khách sẽ bị phạt vi phạm hợp đồng với mức phạt được quy định sau đây: trường hợp vay mua hàng điện tử, điện máy gia dụng; vay mua xe máy; vay tiền mặt, mức phạt phát sinh theo từng giai đoạn khi quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng:

- Mức phạt đầu tiên nếu quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng kể từ ngày thứ tư sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 150.000 đồng; 200.000 đồng; 250.000 đồng.

- Mức phạt phát sinh thêm lần hai sau mức phạt đầu tiên nếu quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng kể từ ngày thứ ba mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng; 400.000 đồng; 450.000 đồng. 

- Mức phạt phát sinh thêm lần ba sau mức phạt đầu tiên và lần hai nếu quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng kể từ ngày thứ sáu mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng; 400.000 đồng; 450.000 đồng.

Theo tác giả, thỏa thuận về phạt vi phạm của hợp đồng cho vay của công ty tài chính như trên, về bản chất là phạt vi phạm về trả tiền gốc và lãi, như vậy là trái với quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực này. Cụ thể, BLDS năm 2015 và Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại như sau:

          (i) Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp vi phạm về trả gốc, lãi. Như vậy, theo quy định này, thỏa thuận phạt vi phạm chỉ được áp dụng đối với hành vi vi phạm các nghĩa vụ của thỏa thuận cho vay (không phải là nghĩa vụ trả gốc, lãi);

          (ii) Tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

Phạt vi phạm là một hình thức chế tài áp dụng đối với một trong các bên vi phạm nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp, tổ chức tín dụng hiểu lầm về chế tài phạt vi phạm hợp đồng với lỗi của bên vay chậm thanh toán bằng hình thức phạt lãi là không chính xác, vì như vậy là “lãi chồng lãi”.

Từ các quy định của pháp luật, nghĩa vụ của bên vay tài sản có thể bao gồm: nếu vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của BLDS trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như trên đã đề cập. Các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích.

Về hình thức của hợp đồng

Khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015, quy định: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Quy định này đề cập trường hợp văn bản phải tuân theo một hình thức nhất định thì mới có hiệu lực đối với các bên.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 129 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.

Khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.

Vấn đề đặt ra, rất khó để xác định thế nào là “hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”. Cách tính tổng số nghĩa vụ trong giao dịch, sau đó xem số lượng nghĩa vụ đã thực hiện là bao nhiêu sẽ không khả thi nếu như trong số các nghĩa vụ đó có những nghĩa vụ không phân chia được theo phần hoặc danh sách các nghĩa vụ mà hợp đồng nêu chỉ mang tính chất liệt kê và là danh sách mở.

Có thể thấy, xuất phát điểm của việc đưa ra quy định này là để hạn chế tình trạng các bên lợi dụng quy định vi phạm về hình thức của giao dịch nhằm yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Điển hình là đối với các giao dịch liên quan đến bất động sản bằng giấy viết tay trước đây khi bên mua đã thanh toán, bên bán đã nhận tiền và giao nhà, đất nhưng vì vướng quy định về hình thức mà bên mua chưa đăng ký sang tên mình được sẽ hứng chịu rủi ro nếu chẳng may bên bán hoặc những người liên quan không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo tác giả, với cách quy định như trên có thể thấy nhiều hệ lụy không tích cực phát sinh, đó là:

Việc quy định công chứng, chứng thực là điều kiện bắt buộc để giao dịch có hiệu lực đã được thực tế chứng minh là rất quan trọng. Một trong những lý do cốt lõi ảnh hưởng đến tính hợp pháp của giao dịch là xem xét năng lực hành vi dân sự và quyền sở hữu đích thực của các chủ thể tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 thì yếu tố này đã bị bỏ qua. Việc công chứng hợp đồng trở thành điều kiện có cũng được mà không có cũng được, miễn sao các bên mua bán và giao tiền, giao tài sản. Rõ ràng, có những vấn đề chuyên môn mà thẩm phán không thể làm thay công chứng viên, bởi công chứng viên mới là người chứng kiến trực tiếp tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng và xác định giao dịch đó có đủ điều kiện để xác lập hay không. Chẳng hạn, ông A và bà B chuyển nhượng đất và nhà cho ông C và bà D. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà B bị tâm thần, tuy nhiên, hợp đồng vẫn có chữ ký của bà B. Sau đó hai bên tiến hành giao tiền và tài sản bình thường và được hợp thức hóa thông qua giải quyết của tòa án. Đương nhiên, tòa án không thể xác định được tại thời điểm giao dịch diễn ra thì bà B có minh mẫn hay không. Một thời gian sau, bà B khỏi bệnh, nhận thấy giá nhà đất tăng vọt, bà B kiện ra tòa với lý do tại thời điểm ký giao dịch bà không minh mẫn, đồng thời xuất trình căn cứ và hồ sơ bệnh án.

Trên đây là những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS năm 2015, xoay quanh về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng, hình thức hợp đồng. Rất mong sự quan tâm trao đổi của quý bạn đọc.

Ths. LS. Lê Văn Sua