Chiều

27/02/2022 04:34 |

(lsvn) -

 

7. Nhật Bản triển khai tiêm phòng vaccine ngừa Covid-19 cho trẻ từ 5-11 tuổi

(LSVN) - Một số tỉnh thành cũng đã được phép triển khai sớm nếu công tác chuẩn bị sẵn sàng. Từ tuần trước, Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu cung cấp vaccine phòng Covid-19 cho các trung tâm y tế trên toàn quốc.

Nhân viên y tế chuẩn bị mũi tiêm vaccine phòng Covid-19 tại Tokyo, Nhật Bản. Ảnh: AFP/TTXVN.

Nhật Bản sử dụng vaccine ngừa Covid-19 của hãng Pfizer/BioNTech cho trẻ em ở độ tuổi này, với liều lượng bằng 1/3 so với liều dùng cho trẻ em trên 12 tuổi. Khoảng cách giữa 2 mũi tiêm là 3 tuần lễ.

Theo kế hoạch, đến tháng 5, Chính phủ Nhật Bản cung cấp khoảng 12 triệu liều vaccine cho các cơ sở y tế trên toàn quốc để tiêm cho trẻ.

Chính phủ Nhật Bản không quy định “nghĩa vụ hợp tác” đối với đối tượng tiêm chủng là trẻ em trong độ tuổi từ 5-11 tuổi và việc tiêm chủng cần phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ, những người cũng cần đi cùng trẻ khi trẻ tiêm vaccine.

Nhật Bản đang mở rộng độ tuổi tiêm chủng vaccine ngừa Covid-19 cũng như đẩy nhanh tốc độ tiêm mũi tăng cường trong bối cảnh làn sóng lây nhiễm do biến thể Omicron hoành hành ở nước này cũng như trên thế giới. Ngày 26/02, Nhật Bản ghi nhận 72.170 ca mới, giảm 12% so với một tuần trước.

TTXVN

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

6. Sớm triển khai công tác chuẩn bị phục vụ mở cửa lại hoạt động du lịch từ 15/3

(LSVN) - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu Sở Quản lý du lịch các tỉnh, thành phố, tham mưu UBND tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch, phương án mở cửa du lịch phù hợp với địa phương; đề xuất các phương án xử lý đối với trường hợp rủi ro trong quá trình triển khai mở cửa lại hoạt động du lịch.

Ảnh minh họa.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa có công văn gửi sở quản lý du lịch các địa phương trên toàn quốc về công tác chuẩn bị phục vụ mở cửa lại hoạt động du lịch từ 15/3.

Theo đó, triển khai thực hiện ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại cuộc họp bàn về phương án mở cửa lại hoạt động du lịch trong điều kiện bình thường mới từ ngày 15/3/2022, nhằm đảm bảo mở cửa lại hoạt động du lịch an toàn, hiệu quả và chất lượng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu Sở Quản lý du lịch các tỉnh, thành phố, tham mưu UBND tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch, phương án mở cửa du lịch phù hợp với địa phương; đề xuất các phương án xử lý đối với trường hợp rủi ro trong quá trình triển khai mở cửa lại hoạt động du lịch. Tuyên truyền về kế hoạch mở cửa lại du lịch đảm bảo an toàn, hiệu quả, phù hợp với các quy định phòng, chống dịch Covid-19.

Các địa phương tiếp tục triển khai Chương trình Phát động du lịch nội địa thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19; hỗ trợ doanh nghiệp du lịch trên địa bàn đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, phát triển sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của khách du lịch sau 2 năm dịch Covid-19; tăng cường công tác xúc tiến quảng bá điểm đến, liên kết phát triển sản phẩm du lịch giữa các địa phương và doanh nghiệp, tổ chức các sự kiện thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Các Sở quản lý du lịch tại các địa phương tham mưu UBND tỉnh, thành phố ban hành các chính sách kích cầu thu hút khách như giảm giá vé tham quan, tặng thêm dịch vụ trải nghiệm cho khách du lịch; Phổ biến, thực hiện các chính sách giảm phí cấp giấy phép kinh doanh lữ hành, phí cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch, giảm tiền ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành, các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động của Trung ương và địa phương để khuyến khích các chủ thể tham gia tích cực phục hồi hoạt động du lịch.

Đồng thời, phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn chuẩn bị cho mở cửa lại hoạt động du lịch, đồng thời xử lý nghiêm trường hợp vi phạm quy định của pháp luật.

Các địa phương chỉ đạo, hướng dẫn các khu, điểm du lịch, các cơ sở kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch trên địa bàn chủ động xây dựng kế hoạch mở cửa hoạt động du lịch trong đó có các phương án phòng, chống dịch Covid-19 và xử lý khi có trường hợp mắc Covid-19 theo quy định.

Tiếp tục thực hiện nghiêm quy định phòng, chống dịch theo các hướng dẫn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế để kiểm soát tốt dịch bệnh; Tự kiểm tra, rà soát chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ; Đầu tư cải thiện, nâng cấp các khu vực xuống cấp.

Tăng cường, mở rộng hạ tầng kỹ thuật dịch vụ phục vụ khách, đáp ứng yêu cầu theo các điều kiện và tiêu chuẩn hiện hành. Căn cứ theo tình hình mới và dự báo nhu cầu thị trường, chủ động tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng nhân lực nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ kịp thời đáp ứng mở cửa lại du lịch.

VĂN QUANG

Mở cửa lại hoạt động du lịch từ ngày 15/3

1. Học sinh nơi nào của Hà Nội sẽ dừng học trực tiếp từ hôm nay?

(LSVN) - Căn cứ theo đánh giá cấp độ dịch trong phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn TP. Hà Nội (cập nhật đến 09h ngày 25/02), toàn bộ học sinh tại 74 xã, phường vùng cam sẽ phải tạm dừng đến trường học trực tiếp kể từ ngày 28/02 (thứ Hai). Nếu chuyển về cấp độ 2, học sinh khu vực đó được trở lại trường.

Toàn bộ học sinh tại 74 xã, phường vùng cam sẽ phải tạm dừng đến trường học trực tiếp kể từ ngày 28/02 (thứ Hai).

Theo nguyên tắc tổ chức cho học sinh đi học trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, nhà trường chỉ tổ chức dạy học trực tiếp ở các địa bàn có mức độ dịch ở cấp độ 1, cấp độ 2.

Các địa bàn mức độ dịch ở cấp độ 3, cấp độ 4 tổ chức dạy học theo hình thức trực tuyến, nhà trường có trách nhiệm phân công giáo viên dạy học cho các học sinh.

Như vậy, căn cứ theo đánh giá cấp độ dịch trong phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn TP. Hà Nội (cập nhật đến 09h ngày 25/02), toàn bộ học sinh tại 74 xã, phường vùng cam sẽ phải tạm dừng đến trường học trực tiếp kể từ ngày 28/02 (thứ Hai). Nếu chuyển về cấp độ 2, học sinh khu vực đó được trở lại trường.

Cụ thể, 74 xã, phường, thị trấn tại 23 quận, huyện vùng cam gồm:

- 11 quận gồm: Ba Đình có 2 phường: Điện Biên và Trúc Bạch; Bắc Từ Liêm có 4 phường: Cổ Nhuế 1, Thượng Cát, Xuân Đỉnh và Xuân Tảo; Đống Đa có phường Khâm Thiên; Hà Đông có 3 phường: Kiến Hưng, Vạn Phúc và Văn Quán; Hai Bà Trưng có 2 phường: Bạch Mai và Nguyễn Du; Hoàn Kiếm có phường Chương Dương; Hoàng Mai có phường Đại Kim; Long Biên có 3 phường: Bồ Đề, Phúc Lợi và Thượng Thanh; Nam Từ Liêm có 6 phường: Mễ Trì, Mỹ Đình 1, Phú Đô, Tây Mỗ, Trung Văn và Xuân Phương; Tây Hồ có phường Quảng An; Thanh Xuân có phường Kim Giang;

- 12 huyện gồm: Chương Mỹ có 5 xã: Đông Phương Yên, Lam Điền, Phú Nghĩa, Trung Hoà, Trường Yên; Đan Phượng có 3 xã: Hạ Mỗ, Tân Lập, Thượng Mỗ; Đông Anh có 8 xã, thị trấn: Đại Mạch, Đông Anh, Đông Hội, Kim Chung, Tiên Dương, Vân Hà, Vĩnh Ngọc và Võng La; Gia Lâm có 2 xã: Đa Tốn và Phù Đổng; Hoài Đức gồm 2 xã: Kim Chung, Vân Côn và thị trấn Trạm Trôi; Mê Linh có 5 xã: Liên Mạc, Mê Linh, Tiến Thắng, Văn Khê và Vạn Yên; Quốc Oai có 2 xã: Tân Hòa và Thạch Thán; Sóc Sơn gồm 5 xã: Đông Xuân, Kim Lũ, Phú Minh, Trung Giã và Xuân Thu; Thạch Thất có 8 xã, thị trấn: Bình Yên, Canh Nậu, Chàng Sơn, Đại Đồng, Hương Ngải, Lại Thượng, Liên Quan và Phú Kim; Thanh Oai có 2 xã: Cự Khê, Thanh Thuỳ); Thanh Trì có 3 xã: Ngọc Hồi, Tân Triều và Vĩnh Quỳnh); Thường Tín có 3 xã: Hòa Bình, Lê Lợi, Nghiêm Xuân.

Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, việc tổ chức cho học sinh đến trường học trực tiếp, đặc biệt là học sinh tiểu học cần được thực hiện theo tinh thần tự nguyện của gia đình học sinh. Các nhà trường cố gắng động viên, hỗ trợ để học sinh đến trường học tập trực tiếp và duy trì các biện pháp bảo đảm an toàn.

MAI HUỆ

Quy định về hủy kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản

5. Vụ Tịnh Thất Bồng Lai: Khi nào khởi tố về tội "Loạn luân"?

(LSVN) - Theo Luật sư tội "Loạn luân" không đòi hỏi phải có hậu quả là sinh con hay trái ý muốn nên chỉ cần có căn cứ cho thấy có hành vi quan hệ tình dục giữa những người cùng dòng máu về trực hệ mà họ biết rõ mối quan hệ ruột thịt nhưng vẫn thực hiện hành vi là có thể xử lý hình sự mà không phụ thuộc vào việc họ có đơn tố cáo hay không.

Khó khởi tố tội 'Loạn luân' tại Tịnh thất Bồng Lai?

Liên quan đến vụ Tịnh Thất Bồng Lai, theo thông tin mới nhất từ lãnh đạo Công an tỉnh Long An thì Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa đã có quyết định chuyển hồ sơ vụ án hình sự xảy ra tại Tịnh thất Bồng Lai về Công an tỉnh để điều tra theo thẩm quyền từ ngày 21/02.

Theo vị lãnh đạo này, Công an tỉnh Long An đã tiếp nhận hồ sơ vụ án, vật chứng và bị can để tiếp tục điều tra, làm rõ vụ án hình sự "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân", do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa khởi tố ngày 03/01.

"Ngoài tội danh trên, Cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "Loạn luân". Tuy vậy, rất khó để khởi tố tội "Loạn luân" vì không có đơn phản ánh, những người nghi ngờ liên quan đều phủ nhận việc quan hệ với ông Lê Tùng Vân để sinh con", vị lãnh đạo này chia sẻ thêm.

Khi nào khởi tố về tội "Loạn luân"?

Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho rằng chỉ cần có căn cứ cho thấy có hành vi quan hệ tình dục giữa những người biết rõ là cùng dòng máu về trực hệ là có thể khởi tố vụ án hình sự, không cần phải có người bị hại, không cần người bị hại phải có đơn tố cáo.

Việc cơ quan điều tra khởi tố nhiều tội danh đối với nhiều người ở Tịnh Thất Bồng Lao là hoàn toàn có thể xảy ra, bởi trước đó có nhiều nội dung tố cáo, tố giác, tin báo về rất nhiều sai phạm của nhóm người sinh sống ở đây. Tuy nhiên, để khởi tố về tội danh gì, khởi tố với ai thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, trên cơ sở các tài liệu chứng cứ đã được xác minh làm rõ.

Trong đó, đối với hành vi loạn luân thì Cơ quan điều tra sẽ khởi tố khi có kết luận giám định ADN của cơ quan chức năng hoặc có các chứng cứ khác chứng minh có hành vi quan hệ tình dục với những người có cùng dòng máu về trực hệ. 

Tội "Loạn luân" là một trong các tội danh xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình quy định tại Chương XVII Bộ luật Hình sự. Theo đó, loạn luân là hành vi quan hệ tình dục giữa những người mà biết rõ là có cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng mẹ khác cha, anh chị em cùng cha khác mẹ. Người thực hiện hành vi loạn luân có thể phải chịu chế tài đến 05 năm tù. 

Như vậy, để xử lý về tội danh này thì Cơ quan điều tra phải thu thập các chứng cứ chứng minh có hành vi quan hệ tình dục giữa những người cùng dòng máu về trực hệ như giữa cha với con, giữa ông với cháu, với anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với nhau hoặc giữa các anh chị em cùng cha cùng mẹ với nhau. Hành vi quan hệ tình dục giữa những người này thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm khi họ biết rõ mối quan hệ giữa họ là có quan hệ huyết thống trực hệ, là anh chị em với nhau nhưng vẫn thực hiện hành vi quan hệ tình dục.

Tội danh này không đòi hỏi phải có hậu quả là sinh con hay trái ý muốn nên chỉ cần có căn cứ cho thấy có hành vi quan hệ tình dục giữa những người cùng dòng máu về trực hệ mà họ biết rõ mối quan hệ ruột thịt nhưng vẫn thực hiện hành vi là có thể xử lý hình sự mà không phụ thuộc vào việc họ có đơn tố cáo hay không.

Pháp luật Việt Nam quy định một số trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, theo đó có một số tội danh thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, Cơ quan điều tra chị khởi tố khi người bị hại có đơn yêu cầu và khi người bị hại rút đơn thì vụ án có thể bị đình chỉ.

Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Ngoài những tội danh được liệt kê tại điều luật này thì các tội danh khác hoặc các trường hợp khác cơ quan điều tra sẽ khởi tố mà không phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại trong đó có tội "Loạn luân" được quy định tại Điều 184 Bộ luật Hình sự. 

"Như vậy theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành thì tội "Loạn luân" không thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Bởi vậy, không cần có đơn yêu cầu khởi tố thì Cơ quan điều tra vẫn khởi tố vụ án nếu có căn cứ cho thấy có hành vi loạn luân xảy ra. Hơn nữa đối với hành vi loạn luân thì có thể sẽ không có người bị hại, nếu cả hai bên đều biết rõ mối quan hệ là cùng dòng máu về trực hệ nhưng vẫn thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì còn có thể khởi tố cả hai bên với tội "Loạn luân", cả hai bên đều là bị can, bị cáo chứ không có ai là bị hại cả. Tội danh này không phải là tội danh xâm phạm đến danh dự nhân phẩm con người và là tội danh xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình", Luật sư Cường phân tích rõ.

Đây là vụ án hình sự có nhiều vấn đề dư luận xã hội quan tâm, liên quan đến tôn giáo, hoạt động từ thiện và liên quan đến trẻ em, liên quan đến đạo đức, thuần phong mỹ tục. Vì vậy, Luật sư cho rằng Cơ quan điều tra cần thận trọng trong việc thu thập đánh giá chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Vụ án này không chỉ làm rõ để xử lý đối với những người vi phạm mà còn để tuyên truyền pháp luật, răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội nên việc giải quyết cẩn thận trọng, triệt để, đúng pháp luật, không oan sai cũng không bỏ lọt tội phạm. 

TIẾN HƯNG

Đấu giá hơn 100 triệu lít xăng dự trữ quốc gia: Có phù hợp với quy định của pháp luật?

4. Khẩn trương rà soát những bất cập trong hoạt động vận tải hành khách trên đường thủy nội địa

(LSVN) - Ngày 27/02, Cục Cảnh sát giao thông vừa ban hành văn bản đề nghị Công an các địa phương khẩn trương triển khai các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa, rà soát, đánh giá những tồn tại, bất cập trong hoạt động vận tải hành khách trên đường thủy nội địa.

Khẩn trương triển khai các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa.

Theo đó, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công an về triển khai các biện pháp khắc phục hậu quả vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng xảy ra ngày 26/02 tại vùng biển Cửa Đại, Hội An, Quảng Nam, Cục Cảnh sát giao thông đã có điện chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố tập trung phối hợp với các lực lượng chức năng khẩn trương rà soát, kiểm tra, thống kê, đánh giá thực trạng tất cả hoạt động vận tải hành khách liên quan đến phương tiện thủy nội địa gồm: hoạt động vận tải hành khách theo tuyến cố định, ngang sông, dọc sông, du lịch, lễ hội, lưu trú nghỉ đêm…

Nội dung rà soát liên quan đến điều kiện hoạt động của cảng, bến thủy nội địa có liên quan đến hoạt động vận tải hành khách; điều kiện hoạt động của phương tiện, thuyền viên; điều kiện kinh doanh vận tải; phương án cứu nạn, cứu hộ tại chỗ; công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động vận tải hành khách trên đường thủy nội địa.

Riêng đối với các tuyến vận tải đường thủy từ bờ ra đảo, phải xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan có liên quan, đặc biệt là ở những nơi có nhiều lực lượng cùng có chức năng xử lý vi phạm, nhưng không xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động vận tải hành khách.

Thông qua công tác rà soát để làm rõ những tồn tại, bất cập trong hoạt động vận tải hành khách trên đường thủy nội địa, nhất là việc thiết kế phương tiện gây khó khăn cho việc thoát nạn khi xảy ra sự cố, tai nạn; phân tích, đánh giá nguyên nhân xảy ra các vụ tai nạn giao thông đường thủy và đề xuất giải pháp khắc phục.

Lực lượng Cảnh sát đường thủy tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường thủy. Trong đó, tập trung kiểm tra ngay tại các đầu bến, các địa bàn phức tạp về hoạt động vận tải hành khách, kiên quyết đình chỉ hoạt động và không cho xuất bến đối với các phương tiện không đảm bảo điều kiện an toàn như chở quá số người quy định, thiếu thiết bị an toàn, cứu sinh, cứu đắm, không có danh sách hành khách theo quy định… hoặc khi điều kiện thời tiết không bảo đảm.

Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền cho các chủ doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách, thuyền viên, người tham gia giao thông nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa, kiến thức về cách xử lý tình huống, công tác cứu nạn, cứu hộ khi xảy ra sự cố bất ngờ hoặc tai nạn giao thông đường thủy.

Lực lượng chức năng yêu cầu các chủ doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách kiểm tra, bảo dưỡng phương tiện sau thời gian dài không hoạt động do dịch Covid-19 trước khi đưa vào sử dụng.

VĂN QUANG

Chế độ đối với Quân nhân chuyên nghiệp chuyển ngành, thôi việc

1. Quy định về xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân

(LSVN) – Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 01/2022/TT-BTP ngày 04/01/2022 về việc quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 của Chính phủ quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến. Trong đó quy định rõ về xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân.

Cụ thể, theo Điều 8 Thông tư quy định về xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân, cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 87/2020/NĐ-CP căn cứ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch cho cá nhân có yêu cầu trong các trường hợp sau:

- Xác nhận thông tin về một việc hộ tịch của cá nhân đã đăng ký, nhưng nội dung đăng ký đã có sự thay đổi do được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, bổ sung thông tin hộ tịch, xác định lại dân tộc, ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ví dụ: Xác nhận thông tin về việc kết hôn mà cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền đã cho phép thực hiện việc thay đổi họ, chữ đệm, tên, cải chính năm sinh của người vợ hoặc người chồng hoặc hai vợ chồng đã ly hôn; Xác nhận thông tin khai sinh của một cá nhân đã được xác định lại dân tộc hoặc được thôi quốc tịch Việt Nam.

Nếu thông tin hộ tịch của cá nhân không có sự thay đổi thì cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch không cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch, hướng dẫn người yêu cầu làm thủ tục cấp bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao trích lục hộ tịch tương ứng, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đề nghị cấp văn bản xác nhận để giải quyết vụ việc liên quan đến cá nhân.

- Xác nhận các thông tin hộ tịch khác nhau của cá nhân.

Ví dụ: Xác nhận toàn bộ các thông tin hộ tịch của một cá nhân, bao gồm: các thông tin về việc đăng ký khai sinh; đăng ký kết hôn; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc; nhận cha, mẹ, con; giám hộ; khai tử...

Xác nhận thông tin về một số việc hộ tịch đã được đăng ký như: thông tin về đăng ký khai sinh; đăng ký nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nhận nuôi con nuôi; thông tin về việc kết hôn, ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn...

- Xác nhận thông tin của một cá nhân trong các giấy tờ hộ tịch không thống nhất, chưa thực hiện cải chính hộ tịch, không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 4 và chưa được lập bản ghi dữ liệu hộ tịch điện tử cá nhân theo quy định tại Điều 11 của Thông tư này.

Ví dụ: Cá nhân có Giấy khai sinh ghi là Trần Văn Q, sinh năm 1963; Giấy chứng nhận kết hôn ghi là Trần Mạnh Q, sinh năm 1963.

- Người yêu cầu phải gửi kèm theo bản chụp hoặc bản sao điện tử các giấy tờ, tài liệu có liên quan để chứng minh thông tin hộ tịch. Trường hợp cần xác minh, cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch nhận được yêu cầu có văn bản đề nghị cơ quan công an, các cơ quan khác có liên quan xác minh theo quy định tại Khoản 3 Điều 13 Nghị định số 87/2020/NĐ-CP. Trường hợp kết quả xác minh không có thông tin hoặc thông tin không thống nhất với giấy tờ người yêu cầu cung cấp thì từ chối cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch.

- Văn bản xác nhận thông tin hộ tịch theo yêu cầu của cá nhân phải nêu rõ, đầy đủ nội dung, thời điểm đăng ký ban đầu; nội dung, căn cứ và thời gian thực hiện các việc thay đổi, điều chỉnh thông tin hộ tịch tính đến thời điểm cấp văn bản xác nhận.

Cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch căn cứ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch, chức năng của cơ quan, tổ chức có yêu cầu, cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch cho cơ quan, tổ chức trong các trường hợp sau:

- Xác nhận thông tin về một việc hộ tịch hoặc một số việc hộ tịch của cá nhân đã được đăng ký.

Ví dụ: Xác nhận thông tin về việc đăng ký khai sinh của ông Nguyễn Văn A; Xác nhận các thông tin: đăng ký khai sinh, ghi vào sổ việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Bản án/Quyết định ly hôn, xác định mối quan hệ cha, mẹ, con, Quyết định cho thôi quốc tịch Việt Nam...); Xác nhận toàn bộ thông tin hộ tịch của cá nhân (bao gồm tất cả thông tin về các việc hộ tịch của cá nhân từ khai sinh, kết hôn, đến đăng ký khai tử ... đã đăng ký, lưu vết trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử).

- Xác nhận thông tin hộ tịch của nhiều cá nhân khác nhau.

Ví dụ: Xác nhận thông tin đăng ký khai sinh của tất cả các con của một cặp vợ chồng; Xác nhận thông tin đăng ký khai sinh của các trường hợp sinh năm 2020, cư trú tại phường A.

- Căn cứ nội dung yêu cầu, chức năng của cơ quan, tổ chức đề nghị xác nhận thông tin hộ tịch, văn bản xác nhận thông tin hộ tịch có thể nêu rõ, đầy đủ nội dung, thời điểm đăng ký ban đầu; nội dung, căn cứ và thời gian thực hiện các việc thay đổi, điều chỉnh thông tin cho đến thời điểm cấp văn bản xác nhận hoặc chỉ xác nhận thông tin về việc đăng ký hộ tịch (số, thời gian, cơ quan đăng ký việc hộ tịch) hoặc xác nhận số liệu thống kê việc hộ tịch đã được đăng ký.

Ví dụ: Trường hợp đề nghị xác nhận thông tin hộ tịch của một cá nhân phục vụ hoạt động điều tra, xác minh, tố tụng của cơ quan điều tra, cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch căn cứ chức năng và đề nghị của cơ quan yêu cầu có thể cấp văn bản xác nhận toàn bộ các thông tin hộ tịch của cá nhân đã được đăng ký, trong đó nêu rõ, đầy đủ nội dung, thời điểm, cơ quan đăng ký ban đầu và các lần thay đổi, điều chỉnh đến thời điểm xác nhận; Trường hợp xác nhận thông tin về việc đăng ký kết hôn của ông Nguyễn Văn A phục vụ việc kiểm tra, giải quyết việc ly hôn hoặc việc tranh chấp dân sự khác của cơ quan tố tụng thì văn bản xác nhận thông tin hộ tịch chỉ xác nhận việc ông Nguyễn Văn A đã đăng ký kết hôn, thông tin về số Giấy chứng nhận kết hôn, thời gian, cơ quan đăng ký; Trường hợp xác nhận thông tin phục vụ việc kiểm tra, đánh giá tỷ lệ học sinh được đến trường theo yêu cầu của nhà trường, cơ quan quản lý giáo dục thì tuỳ theo đề nghị, văn bản xác nhận thông tin hộ tịch có thể cung cấp số liệu thống kê về số trẻ em theo địa bàn cư trú, năm sinh hoặc cung cấp danh sách trẻ em kèm theo thông tin về việc đăng ký khai sinh (số Giấy khai sinh, thời gian, cơ quan đăng ký khai sinh).

Việc xác nhận thông tin hộ tịch theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân phải bảo đảm đúng quy định pháp luật về bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, danh dự, uy tín của cá nhân.

Văn bản xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân theo quy định tại điểm a, b, c Khoản 1 Điều này có giá trị như giấy tờ hộ tịch, được sử dụng để chứng minh thông tin hộ tịch khi cá nhân thực hiện thủ tục hành chính hoặc tham gia các giao dịch dân sự khác theo quy định pháp luật.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 18/02/2022.

NGUYỄN PHƯƠNG

Các bước nhận hỗ trợ chế độ từ BHXH khi bị F0

2. Chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc

(LSVN) - Tôi đang làm việc cho nhà máy Z và đang có dự định thôi việc từ tháng 6/2022. Vậy pháp luật hiện hành quy định việc thực hiện chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc như thế nào?

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành Nghị định số 19/2022/NĐ-CP quy định biện pháp thi hành chế độ, chính sách đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng chuyển ngành, công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc theo quy định của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/4/2022. Trong đó, Nghị định quy định rõ về chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc.

Cụ thể, chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc được thực hiện như sau:

Thứ nhất, được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và các chế độ khác (nếu có) theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thứ hai, được hưởng trợ cấp một lần, cứ mỗi năm công tác được trợ cấp bằng 01 tháng tiền lương của tháng liền kề trước khi thôi việc do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng quản lý công nhân và viên chức quốc phòng trước khi thôi việc chi trả.

Thứ ba, thực hiện chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng đã thôi việc về địa phương trong thời gian không quá 01 năm (12 tháng) kể từ ngày quyết định thôi việc có hiệu lực như sau:

- Nếu được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước thì được thực hiện chế độ chuyển ngành theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định này, đồng thời phải hoàn trả khoản trợ cấp một lần quy định tại khoản 2 Điều này và trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần (đã nhận) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi công nhân và viên chức quốc phòng công tác trước khi thôi việc chỉ đạo thu hồi quyết định thôi việc và các khoản trợ cấp nêu trên; ra quyết định hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết định chuyển ngành; nộp các khoản trợ cấp đã thu vào ngân sách nhà nước và tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng; hoàn thiện hồ sơ đề nghị Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng xác nhận, thực hiện bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước đó theo quy định.

- Nếu được tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp, đơn vị không hưởng lương từ ngân sách nhà nước mà có nguyện vọng được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội thì phải hoàn trả khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần (đã nhận) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi công nhân và viên chức quốc phòng công tác trước khi thôi việc chỉ đạo thu hồi khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần nộp vào tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng; hoàn thiện hồ sơ đề nghị Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng xác nhận, thực hiện bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước đó theo quy định. Khi đủ điều kiện hưởng lương hưu, không được áp dụng cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội làm căn cứ để tính lương hưu theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị định này.

- Trường hợp cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi công nhân và viên chức quốc phòng công tác trước khi thôi việc đã sáp nhập hoặc giải thể thì thực hiện theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 2 Nghị định này.

- Thời gian công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc về địa phương không được tính là thời gian công tác tham gia bảo hiểm xã hội.

TIẾN HƯNG

Chế độ đối với Quân nhân chuyên nghiệp chuyển ngành, thôi việc

SÁNG . Hồ sơ đăng ký tập sự hành nghề Luật sư gồm những gì?

(LSVN) - Thông tư 10/2021/TT-BTP do Bộ Tư pháp vừa ban hành ngày 10/12/2021 quy định về hướng dẫn tập sự hành nghề Luật sư. Trong đó nêu rõ về đăng ký tập sự hành nghề Luật sư.

Cụ thể, người đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 3 của Thông tư này đăng ký tập sự tại Đoàn Luật sư nơi có trụ sở của tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự.

Khoản 1 Điều 3 của Thông tư này quy định như sau:

"1. Người đáp ứng các điều kiện sau đây thì được đăng ký tập sự hành nghề Luật sư:

a) Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt;

b) Có Bằng cử nhân luật hoặc Bằng thạc sỹ luật;

c) Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề Luật sư tại Việt Nam hoặc Quyết định công nhận đào tạo nghề Luật sư ở nước ngoài hoặc giấy tờ chứng minh được miễn đào tạo nghề Luật sư nhưng thuộc trường hợp phải tập sự hành nghề Luật sư theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật Luật sư".

Hồ sơ đăng ký tập sự gồm có:

- Giấy đề nghị đăng ký tập sự hành nghề Luật sư theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này;

- Giấy xác nhận về việc nhận tập sự hành nghề Luật sư của tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự;

- Bản sao Bằng cử nhân luật hoặc bản sao Bằng thạc sỹ luật;

- Bản sao Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề Luật sư tại Việt Nam hoặc bản sao Quyết định công nhận đào tạo nghề Luật sư ở nước ngoài hoặc bản sao giấy tờ chứng minh được giảm thời gian tập sự hành nghề Luật sư theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 16 của Luật Luật sư.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư ghi tên người tập sự vào danh sách người tập sự của Đoàn Luật sư và cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề Luật sư cho người tập sự theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này; trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của Thông tư này.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề Luật sư, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư gửi văn bản thông báo cho tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự.

PHƯƠNG HOA

Thời gian tập sự hành nghề Luật sư theo quy định mới

3. 

1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về tổ chức phiên tòa trực tuyến

(LSVN) - Trên thế giới, Tòa án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia cũng như các nhà nghiên cứu, bởi lẽ, những thách thức khi tổ chức phiên tòa trực tuyến là không nhỏ. Trong nội dung bài viết, tác giả cung cấp thông tin cũng như kinh nghiệm của các quốc gia Áo, Đức và Ý về tổ chức phiên tòa trực tuyến.

Phương cách tương tác giữa Thẩm phán, các bên đương sự và Luật sư trong phiên tòa trực tuyến cũng cần phải thay đổi trong bối cảnh mới khác với phòng xử án truyền thống khi việc thiết kế và bố trí tạo ra sự khác biệt giữa phiên tòa trực tiếp với phiên tòa trực tuyến. Phiên tòa trực tiếp tạo ra tính nghiêm minh, không khí nghiêm túc, trong khi đó, thực tiễn tại phiên tòa trực tuyến có phần nào khác biệt.

Thực tế, pháp luật một số quốc gia đã quy định về xét xử trực tuyến từ những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 để hiện đại hóa trình tự và thủ tục tố tụng dân sự hoặc để tổ chức phiên tòa hình sự một cách an toàn hơn. Vào năm 2009, trong khuôn khổ một chương trình có tên gọi “Xét xử trực tuyến/điện tử châu Âu”, các nước thuộc Hội đồng châu Âu đã xây dựng một chương trình xét xử trực tuyến/qua video.

1. Áo

Năm 2004, tại Áo đã áp dụng quy định cho phép nghe các bên, chuyên gia và người làm chứng trong tố tụng dân sự; bị cáo và người làm chứng trong tố tụng hình sự trình bày qua video. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến/qua video đã được quy định tại Điều 589(3) của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật quản lý Tòa án và Đạo luật phòng chống Covid. Mặc dù Hiến pháp của Áo[1] đã quy định các bên trong tranh chấp phải có mặt tại phiên tòa, các phiên tòa dân sự và hình sự phải được mở công khai, tuy nhiên hệ thống pháp luật của Áo cho phép  một số ngoại lệ cho phép các bên có thể tham gia phiên tòa trực tuyến. Đồng thời, việc sử dụng phương tiện thông tin điện tử để tương tác giữa Tòa án và các bên với tư cách là một bộ phận của trình tự tố tụng được coi là một đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp của Áo.

Điều 171 và Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự của Áo cũng quy định việc sử dụng nền tảng họp/xét xử trực tuyến như sau: “Nếu kỹ thuật cho phép, Tòa án có thể thu nhận chứng cứ thông qua phương tiện kỹ thuật để chuyển hóa chữ và hình ảnh, trừ trường hợp việc thu nhận chứng cứ trực tiếp tại tòa án là thích hợp hoặc cần thiết hơn vì lý do đặc biệt có xem xét đến nguyên tắc kinh tế mang tính thủ tục…”. Trong Bộ luật tố tụng hình sự[2], cũng có một điều khoản liên quan đến việc xét xử trực tuyến theo đó để tạo điều kiện cho việc xét xử trực tuyến, tất cả Tòa án, cơ quan công tố và nhà tù được trang bị nền tảng/hệ thống họp trực tuyến[3]. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc sử dụng công nghệ trong các vụ xử dân sự và hình sự trong thực tiễn cũng bị hạn chế trong một số tình huống ngoại lệ.

Ngày 16/3/2020, Đạo luật chống Covid có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh Covid -19. Cân nhắc xu hướng sử dụng các phương tiện điện tử và các nền tảng họp trực tuyến trong các phiên xét xử trực tiếp, Đạo luật phòng chống Covid - 19 chủ yếu mở rộng việc sử dụng các công cụ hiện có để thúc đẩy chức năng quản lý hệ thống Tòa án từ xa. Nói một cách cụ thể hơn, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương án xét xử trực tuyến mà không cần phải đến Tòa [4]. Sự chấp thuận của các bên là bắt buộc, việc xét xử trực tuyến mà không có sự chấp thuận của các bên được coi là vi phạm quyền xét xử công bằng. Tại Áo, luật yêu cầu sự chấp thuận của các bên và bị can trong tố tụng dân sự và hình sự.

Theo Đạo luật này, bên cạnh một số biện pháp khác đã điều chỉnh trình tự và thủ tục của Tòa án trong các vụ án dân sự để ứng phó với dịch bệnh đảm bảo quyền được xét xử kịp thời của các bên đương sự. Luật ứng phó đại dịch Covid[5] cho phép, trong một khoảng thời gian giới hạn, các phiên xét xử được tổ chức trực tuyến với sự đồng ý của các bên trong tố tụng dân sự. Luật cũng cho phép tổ chức các phiên xét xử trực tuyến trong các vụ án hình sự, đặc biệt là liên quan đến việc giam giữ các nghi phạm hoặc bị can. Tuy nhiên, các phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tổ chức trực tuyến trong những trường hợp đặc biệt. Trong tố tụng hành chính, luật chỉ quy định rằng các bên “có thể” được xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, trong quyết định ngày 08/10/2020, Tòa án Hiến pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử trực tuyến - để bảo vệ quyền của họ đối với một phiên tòa công bằng.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Áo sử dụng là Zoom (các quốc gia như: Bang Michigan của Hoa Kỳ, Tây Ban Nha (tòa án Madrid), Vương quốc Anh, Ba Lan, Thụy Sĩ (tòa án thương mại Zurich), Singapore, Tòa án tối cao của Victoria, New Zealand cũng sử dụng nền tảng công nghệ này). Việc sử dụng công nghệ mới phụ thuộc vào sự hợp tác của các Thẩm phán và tình hình tại từng Tòa án. Quy mô của các phòng xử án - trong các phòng lớn, vẫn có thể thực hiện các phiên xét xử trực trực tuyến với các thiết bị kỹ thuật có sẵn. Các Tòa án nơi các Thẩm phán đã làm việc với các hồ sơ điện tử thường có thiết bị kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên, ở một số quốc gia châu Âu, Zoom và các hệ thống thuộc sở hữu tư nhân khác bị coi là không đáng tin cậy vì lý do bảo vệ dữ liệu, mặc dù chúng ổn định và thân thiện với người dùng.

2. Đức

Đầu những năm 2000, việc xét xử qua video đã được đưa ra áp dụng tại Đức. Các phiên xét xử video tại các Tòa án đã được giới thiệu vào năm 1998 để bảo vệ nhân chứng trong các phiên tòa hình sự. Điều 128a của Bộ luật Tố tụng dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý, các quy định tương tự đã được quy định trong các Luật Tố tụng Hành chính và Gia đình. Tuy nhiên, trong thủ tục tố tụng hình sự, chỉ có nhân chứng mới có thể tham gia trực tuyến từ xa, một cách tiếp cận khá khác so với các quy định ở các nước châu Âu khác. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý, nhưng các cuộc xét xử trực tuyến không được sử dụng nhiều trước đại dịch Covid ở Đức, tuy nhiên, quốc gia này có một số kinh nghiệm về các phiên xét xử trực tuyến tại các Tòa án thuế khi các bên và Tòa án sử dụng nền tảng “Máy chủ Truyền thông Video của Cisco (VCS)”.

Ở Đức không yêu cầu sự chấp thuận về mặt pháp lý (tương tự như ở Ireland, San Marino và Tây Ban Nha), Tòa án có thể quyết định tổ chức một phiên xét xử từ xa theo đơn của một bên hoặc thậm chí chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, một cuộc xét xử trực tuyến không được tiến hành trái với mong muốn của các bên. Trong tố tụng hình sự, các phiên xét xử trực tuyến được giới hạn trong việc nghe các nhân chứng trình bày. Ngoài ra, thường có những quy tắc đặc biệt trong tố tụng hình sự và mong muốn của các bên được cân nhắc.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Đức sử dụng là CISCO Webex.  Tại Diễn đàn Thường trực Quốc tế về các Tòa án Thương mại đã đưa ra một bản ghi nhớ vào tháng 5/2020 để hỗ trợ các Tòa án trong việc lựa chọn và sử dụng các nền tảng kỹ thuật. Trong việc chọn một nền tảng cho các cuộc xét xử video, bảo mật dữ liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, ở Đức các hệ thống này được sử dụng trên các máy chủ riêng của Tòa án (tại cơ sở). Các Tòa án đã tuân thủ cách hiểu truyền thống về “phiên xét xử công khai” liên quan đến phiên xét xử trực tuyến. Các Thẩm phán chỉ có thể tiến hành các phiên xét xử trực tuyến từ phòng xử án của họ, phòng xử án phải được công khai. Về mặt kỹ thuật, có thể dễ dàng phát trực tiếp các phiên xét xử và do đó cho phép một số lượng lớn công dân quan tâm đến xem. Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu.

3. Ý

Ở Ý, sự nguy hiểm của các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển và sử dụng các phiên xử trực tuyến qua video tại các Tòa án. Các quy định pháp luật khác nhau cho phép xét xử trực tuyến qua video đã được sử dụng trong cơ quan tư pháp Ý trong hơn 20 năm. Bộ Tư pháp Ý cung cấp các hệ thống nghe nhìn an toàn phục vụ cho hoạt động của Tòa án.

Kể từ năm 1992, Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự Ý quy định “cộng tác viên”, các đặc vụ chìm và những người khác có thể phải đối mặt với nguy cơ gây áp lực hoặc nguy hiểm cho sự an toàn của họ và gia đình, do vậy họ có thể làm chứng thông qua công nghệ trực tuyến. Trong trường hợp này, Thẩm phán sau khi cân nhắc mọi mặt có thể quyết định xét xử video mà không cần sự đồng ý của họ. Tại nơi nhân chứng có mặt, một cán bộ sẽ được bố trí để đảm bảo tính thường xuyên của việc kiểm tra chéo.

Tòa án Hiến pháp được kêu gọi để ra phán quyết về tính hợp pháp của phương pháp thẩm tra chéo (từ xa) này, cho rằng quy định của luật phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc của thủ tục tố tụng[6]. Cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức trong các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 không chỉ cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ nhân chứng mà còn cho thấy lợi thế của việc không chuyển tội phạm nguy hiểm từ nhà tù an toàn đến phòng xử án. Từ năm 1998, Luật tố tụng hình sự của Ý đã quy định rằng trong các phiên tòa xét xử tội phạm có tổ chức hoặc khủng bố, các bị cáo bị giam trong tù được tham gia bằng hội nghị truyền hình[7]. Hội nghị truyền hình được thực hiện bằng cách kích hoạt đường truyền truyền hình giữa nơi giam giữ bị can và phòng xử án. Hơn nữa, một bị can bị giam giữ ở nước ngoài không thể được chuyển đến Ý cũng có thể tham dự phiên xét xử hình sự thông qua hội nghị truyền hình [8].

Cơ sở pháp lý cho các cuộc xét xử trực tuyến đã được đưa ra trước đại dịch, luật đã được sửa đổi để thích ứng trong thời gian đại dịch Covid-19. Các quy tắc tố tụng được áp dụng sau trường hợp khẩn cấp về y tế trong đại dịch Covid-19 đã mở rộng khả năng sử dụng xét xử trực tuyến trong các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, Luật 27/2020 quy định rằng từ ngày 09/3/2020 đến ngày 30/6/2020 (thời hạn sau đó kéo dài đến ngày 31/7/2020), các phiên xét xử hình sự không có sự tham gia của nhân chứng mà không phải là cảnh sát tư pháp thì có thể được tổ chức thông qua các kết nối từ xa được do Bộ Tư pháp quyết định.

Nếu không có sự đồng ý của người bị buộc tội, những quy định này không áp dụng đối với các phiên xét xử chung thẩm và đối với những phiên tòa mà nhân chứng, các bên, nhà tư vấn và chuyên gia cần được thẩm tra lời khai. Trong đợt đại dịch thứ hai, các quy định tương tự đã được thông qua vào cuối tháng 10/2020 có hiệu lực cho đến ngày 31/1/2021. Nếu cần thiết, các quy tắc này có thể được gia hạn thêm. Tại Tòa Giám đốc thẩm Tối cao hầu hết các phiên tòa xét xử, dân sự và hình sự, đều được tổ chức trực tuyến. Các vụ án dân sự vẫn được xét xử trực tiếp, nhưng các phiên xét xử công khai về hình sự thường được tổ chức trực tuyến trên cơ sở kháng cáo được nộp và kết tội bằng văn bản của công tố viên, trừ khi Bộ trưởng Tư pháp hoặc người bào chữa yêu cầu một phiên xét xử trực tiếp.

Kết luận

Cho đến nay, những trải nghiệm tích cực đã được báo cáo từ các quốc gia khác nhau, hều hết đều đồng ý rằng các cuộc xét xử trực tuyến đã tăng lên đáng kể vì đại dịch. Các Thẩm phán đồng tình rằng sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật phù hợp và kết nối internet tốt là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các phiên xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngoài các vấn đề kỹ thuật, các mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng của phiên xét xử và các rủi ro có thể xảy ra đối với quyền xét xử công bằng, đặc biệt là quyền bào chữa cũng được đề cập. Một phiên xét xử nên cung cấp một không gian được kiểm soát bởi Thẩm phán để bằng chứng có thể được thu thập và đánh giá một cách thích hợp. Trong các phiên xét xử trực tuyến, các Thẩm phán có ít quyền kiểm soát hơn đối với giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các bên và nhân chứng. Các Thẩm phán coi các phiên xét xử từ xa là cần thiết trong thời kỳ đại dịch nhưng không thích hợp hơn các phiên xét xử trực tiếp.

Trong một cuộc khảo sát các đại biểu tham dự Hội nghị tư pháp trực tuyến do Bộ trưởng trưởng Tư pháp Cộng hòa liên bang Đức tổ chức ngày 08/12/2020, 70% đại biểu cho rằng trong vòng 3 năm tới việc xét xử trực tuyến qua video sẽ phổ biến toàn châu Âu [9]. Bên cạnh đó, những năm gần đây, một số quốc gia đã hướng tới phương cách “Xét xử trực tuyến/qua video” không chỉ đơn giản là nộp đơn kiện/hồ sơ vụ án qua phương tiện điện tử mà còn sửa đổi luật của mình để áp dụng cách xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngay từ khi đưa ra áp dụng quy định này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và giới Luật sư…đã nêu vấn đề như quyền xét xử bình đẳng và quyền tiếp cận công nghệ.

Ở một số quốc gia, các phiên xét xử trực tuyến được coi là một công cụ quan trọng cho ngành tư pháp không chỉ trong đại dịch mà còn trong tương lai. Trong chặng đường phía trước, cần có nhiều nghiên cứu và thảo luận để phát triển các quy tắc và hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển các phiên xét xử video thành một nơi - mặc dù không phải là một nơi thực tế - nơi công lý có thể được thực hiện.

[1] Điều 90 của Hiến pháp Áo

[2] Điều 165 Luật tố tụng hình sự của Áo

[3] https://edition.cnn.com/2021/02/09us/cat/filter-lawyer-zoom-court

[4] Điều 21 khoản 3 của Đạo luật phòng chống Covid

[5] Điều 21 Luật ứng phó đại dịch Covid 19

[6] Bản án No 342 22/7/1999

[7] Điều 146 của Bộ luật tố tụng hình sự có sửa đổi bổ sung 11/1998 và điều 134 của Bộ luật tố tụng hình sự ban hành tháng 4/2011

[8] Điều 205 về thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

[9] https:www.iacajournal.org/article

Luật gia THANH TÙNG

Tạp chí Tòa án nhân dân

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

 

Admin