Bổ sung nhiều chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nghị định số 205/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/9/2025.
Nghị định 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điểm, khoản của Điều 5 về chính sách hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao công nghệ để sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Theo đó, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ để sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, các ưu đãi, hỗ trợ về chuyển giao công nghệ và các ưu đãi, hỗ trợ khác theo quy định hiện hành...
Có thể góp vốn vào quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo bằng quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật
Chính phủ ban hành Nghị định số 210/2025/NĐ-CP ngày 21/7/2025. Trong đó, Nghị định số 210/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 5 Nghị định số 38/2018/NĐ-CP về Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo hướng mở rộng một số điều kiện như: Loại tài sản góp vốn (bổ sung góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật) và các hình thức đầu tư (công cụ chuyển đổi, quyền mua cổ phần); đồng thời, quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn về việc sử dụng vốn nhàn rỗi và các khoản đầu tư vào tổ chức tín dụng.
Cụ thể, Nghị định số 210/2025/NĐ-CP nêu rõ: Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không có tư cách pháp nhân, có từ 02 đến tối đa 30 nhà đầu tư góp vốn thành lập trên cơ sở Điều lệ quỹ. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không được góp vốn vào quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo khác. Tài sản góp vốn có thể bằng Đồng Việt Nam, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật và các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
Nghị định trên có hiệu lực từ ngày 15/9/2025.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Chế độ, chính sách đối với lực lượng quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự
Chính phủ ban hành Nghị định số 213/2025/NĐ-CP ngày 30/7/2025. Trong đó, Nghị định quy định về chế độ, chính sách đối với lực lượng quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Cụ thể, Nghị định quy định trợ cấp ngày công lao động, tiền ăn đối với cá nhân được huy động tham gia hoạt động bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự như sau:
Mức trợ cấp ngày công lao động bằng mức trợ cấp đối với dân quân biển làm nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ hải đảo, vùng biển. Mức tiền ăn bằng tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh đang tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Nghị định trên có hiệu lực từ ngày 15/9/2025.
Quy định mới về dạy và học bằng tiếng nước ngoài
Chính phủ ban hành Nghị định số 222/2025/NĐ-CP ngày 8/8/2025 quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 9 năm 2025. Trong đó, Nghị định quy định chi tiết yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực ngoại ngữ đối với người dạy. Người dạy phải đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định đối với từng cấp học, trình độ đào tạo.
Về năng lực ngoại ngữ, giáo viên dạy cấp tiểu học, cấp trung học cơ sở phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương; giáo viên dạy cấp trung học phổ thông phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5. Người dạy các trình độ của giáo dục nghề nghiệp phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5. Giảng viên giảng dạy các trình độ giáo dục đại học phải có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu giảng dạy của chương trình đào tạo, tối thiểu bậc 5.
Nghị định cũng quy định: Người được đào tạo đại học, thạc sĩ, tiến sĩ toàn thời gian ở nước ngoài với ngoại ngữ là ngôn ngữ giảng dạy và có văn bằng tốt nghiệp được công nhận theo quy định hoặc có bằng tốt nghiệp cử nhân ngoại ngữ, sư phạm ngoại ngữ tại Việt Nam được miễn yêu cầu về năng lực ngoại ngữ
Quy định về yêu cầu đối với người học lái xe
Ngày 30/6/2025, Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành Thông tư 14/2025/TT-BXD quy định về đào tạo lái xe; bồi dưỡng, kiểm tra, cấp chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ.
Thông tư quy định về yêu cầu đối với người học lái xe từ ngày 01/9/2025 như sau:
- Là công dân Việt Nam, người nước ngoài được phép cư trú hoặc đang làm việc, học tập tại Việt Nam.
- Người học lái xe để nâng hạng giấy phép lái xe phải đáp ứng theo quy định tại khoản 4 Điều 60 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ; trong đó, thời gian lái xe an toàn cho từng hạng giấy phép lái xe được quy định cụ thể như sau: Hạng B lên C1, B lên C, B lên D1, B lên BE, C1 lên C, C1 lên D1, C1 lên D2, C1 lên C1E, C lên D1, C lên D2, D1 lên D2, D1 lên D, D1 lên D1E, D2 lên D, D2 lên D2E, D lên DE: thời gian lái xe an toàn từ 02 năm trở lên; Hạng B lên D2, C lên CE, C lên D: thời gian lái xe an toàn từ 03 năm trở lên.
- Người đã có giấy phép lái xe hạng B chuyển số tự động được đăng ký học để cấp mới giấy phép lái xe hạng B chuyển số cơ khí (số sàn), người đã có giấy phép lái xe hạng B được đăng ký học để cấp mới giấy phép lái xe hạng C1 theo quy định; hồ sơ của người học lái xe thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Thông tư 14/2025/TT-BXD.

