/ Chưa được phân loại
/ TRỰC THỨ 6, THỨ 7

TRỰC THỨ 6, THỨ 7

25/08/2022 05:15 |

(LSVN) -

CHIỀU

 Dự án Luật Phòng thủ dân sự: Đánh giá rõ hơn tác động của các chính sách để thiết kế lại các điều luật cho phù hợp

(LSVN) - Để tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Phòng thủ dân sự, bảo đảm chất lượng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát để bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật giữa các quy định của dự thảo Luật với các quy định của pháp luật có liên quan, chỉ rõ những mâu thuẫn, chồng chéo hoặc chưa quy định; đánh giá rõ hơn tác động của các chính sách để thiết kế lại các điều luật cho phù hợp.

 

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Bùi Văn Cường đã có Văn bản số 1357/TB-TTKQH thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật Phòng thủ dân sự.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự để tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ phòng, chống, ứng phó, khắc phục hiệu quả với các mối đe dọa, các thảm họa, sự cố, bảo đảm an ninh, an toàn cho nhân dân, đất nước khi có tình huống xảy ra, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên, đây là dự án Luật có nội dung phức tạp, phạm vi rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều văn bản quy phạm pháp luật.

Để tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật, bảo đảm chất lượng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát để bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật giữa các quy định của dự thảo Luật với các quy định của pháp luật có liên quan, chỉ rõ những mâu thuẫn, chồng chéo hoặc chưa quy định; đánh giá rõ hơn tác động của các chính sách để thiết kế lại các điều luật cho phù hợp.

Xây dựng Luật Phòng thủ dân sự theo hướng quy định các nguyên tắc, cơ chế chung về phòng thủ dân sự, không quy định lại nội dung do các luật chuyên ngành đã điều chỉnh, vì phòng thủ dân sự liên quan đến mọi lĩnh vực quốc gia, là một bộ phận của phòng thủ đất nước được thực hiện đồng bộ ở nhiều cấp, nhiều ngành, có lực lượng nòng cốt, chuyên trách, kiêm nhiệm và sự tham gia của mọi người dân.

Đồng thời, xác định rõ phạm vi, nội hàm của phòng thủ dân sự trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Quốc phòng; cần nghiên cứu để xây dựng khái niệm phòng thủ dân sự phù hợp với thực tiễn triển khai thời gian qua. Theo đó, cần làm rõ phạm vi phòng, chống và khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố trong phòng thủ dân sự cho phù hợp.

Rà soát kỹ các quy định về tình trạng khẩn cấp và nghiên cứu thiết kế nội dung “tình trạng khẩn cấp về phòng thủ dân sự” thành “phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp”. Luật này chỉ xác định các biện pháp, cơ chế phòng thủ dân sự khi xảy tình trạng khẩn cấp; tiếp tục nghiên cứu xây dựng Luật Tình trạng khẩn cấp theo kế hoạch xây dựng pháp luật đã ban hành để quy định tổng thể, thống nhất, toàn diện về tình trạng khẩn cấp.

Ngoài ra, rà soát, chỉnh lý các quy định về giải thích từ ngữ, bổ sung một số khái niệm để làm rõ nội dung cần quy định trong luật; thiết kế, chỉnh lý lại các quy định phân loại, phân cấp độ thảm họa, sự cố; việc xây dựng các công trình phòng thủ dân sự; các biện pháp ứng phó sự cố, thảm họa; cơ quan, cơ chế chỉ đạo, chỉ huy và lực lượng phòng thủ dân sự; Quỹ phòng thủ dân sự; quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, quản lý Nhà nước về phòng thủ dân sự,… bảo đảm chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể, khả thi.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ chỉ đạo Ban soạn thảo dự án Luật nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến tại Phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Quốc phòng và An ninh để bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ dự án Luật Phòng thủ dân sự báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 15 (tháng 9/2022). Giao Ủy ban Quốc phòng và An ninh chủ trì, phối hợp với Ban soạn thảo dự án Luật Phòng thủ dân sự, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan liên quan thẩm tra dự án Luật để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội.

THU HƯƠNG

Những khoản chi phí nào được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp?

1. Mức chi phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, giải quyết hòa giải, mâu thuẫn ở khu vực nông thôn

(LSVN) - Đây là một trong những điểm đáng chú ý tại Thông tư 53/2022/TT-BTC quy định hỗ trợ kinh phí cho xã, thôn, mua sắm trang thiết bị hoạt động văn hóa, thể thao, xây dựng tủ sách, tổ chức giải thể thao.

Ảnh minh họa.

Theo đó, tại Điều 35 Thông tư quy định rõ chi phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, giải quyết hòa giải, mâu thuẫn ở khu vực nông thôn.

Cụ thể, đối với phổ biến, giáo dục pháp luật, tiêu chí “xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo quy định” trong xã nông thôn mới, tiêu chí “tiếp cận pháp luật” trong xã nông thôn mới nâng cao, tiêu chí “huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo quy định” trong huyện nông thôn mới: Thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27 tháng 01 năm 2014 của liên Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.

Đối với hòa giải ở cơ sở: Thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30 tháng 7 năm 2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

Về chi nâng cao nhận thức, thông tin về trợ giúp pháp lý; tăng cường khả năng thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý, nội dung chi cho các hoạt động nâng cao nhận thức, thông tin về trợ giúp pháp lý; tăng cường khả năng thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp.

Mức chi thực hiện theo quy định hiện hành và quy định tại Điều 5 Thông tư này.

Thông tư cũng quy định rõ về chi tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới; tăng cường chăm sóc, bảo vệ trẻ em và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội.

Theo đó, chi truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em cho đội ngũ cán bộ triển khai chương trình nông thôn mới và người dân vùng nông thôn. Nội dung và mức chi thực hiện theo quy định khoản 2 Điều 5 Thông tư này.

Chi đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cấp huyện, xã về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Mức chi thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư này.

Chi tổ chức điều tra, nghiên cứu, khảo sát việc thực hiện bình đẳng giới; bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Mức chi thực hiện theo quy định tại khoản 7 Điều 5 Thông tư này.

Chi hỗ trợ xây dựng mô hình Địa chỉ tin cậy - Nhà tạm lánh ở cộng đồng, nơi tạm trú an toàn tại cộng đồng: Nội dung và mức chi thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 4 Thông tư số 03/2022/TT-BTC ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Bộ Tài chính quy định quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách nhà nước thực hiện các Chương trình phát triển công tác xã hội, trợ giúp người khuyết tật, trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, trẻ em tự kỷ và người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2021-2030.

Chi hỗ trợ tăng cường chăm sóc, bảo vệ trẻ em và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội.

- Chi hỗ trợ người cung cấp thông tin về trẻ em, người bị bạo lực trên cơ sở giới, người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội: 60.000 đồng/người;

- Chi hỗ trợ tiền điện thoại cho cộng tác viên để tiếp nhận thông tin, kết nối dịch vụ thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp: 100.000 đồng/người/tháng;

- Chi lập hồ sơ trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: 45.000 đồng/ hồ sơ (bao gồm cả ảnh);

- Chi hỗ trợ cho người đưa trẻ em, người bị bạo lực trên cơ sở giới cần bảo vệ khẩn cấp đến trung tâm, cơ sở: Hỗ trợ tiền ăn: 70.000 đồng/người/ngày, không quá 03 ngày và tối đa 02 người; Hỗ trợ chi phí đi lại (đi và về, tối đa không quá 02 người): Mức chi theo giá phương tiện công cộng áp dụng tại địa phương hoặc 0,2 lít xăng/km tính theo số km thực tế và giá xăng tại thời điểm đi (trong trường hợp tự túc phương tiện).

MAI HUỆ

Bàn về người đại diện của cá nhân trong tố tụng hình sự

2. Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): Đề xuất 5 trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

(LSVN) - Ngoài các nội dung kế thừa Luật Đất đai 2013, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bổ sung các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Ảnh minh họa.

Theo đó, tại Điều 121 Chương IX của dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, luật hóa các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.

Cụ thể, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bổ sung các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gồm:

- Đất dự phòng và đất thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

- Đất được giao để quản lý thuộc các trường hợp quy định tại Điều 9 của Luật này, trừ trường hợp: đất được giao sử dụng chung với đất được giao quản lý thì được chứng nhận phần quyền sử dụng theo quyết định giao, cho thuê của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Đất thuê, thuê lại của người sử dụng đất; đất nhận khoán, trừ trường hợp thuê, thuê lại đất của nhà đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng, phù hợp với dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

- Đất đã được đăng ký vào sổ địa chính nhưng đã có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp đã quá 03 năm kể từ thời điểm có quyết định thu hồi đất mà không thực hiện.

- Tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích xây dựng công trình công cộng gồm: công trình giao thông, công trình dẫn nước, dẫn xăng, dầu, khí; đường dây truyền tải điện, truyền dẫn thông tin; khu vui chơi giải trí ngoài trời; nghĩa trang, nghĩa địa không nhằm mục đích kinh doanh.

HỒNG HẠNH

Cảnh giác với hành vi giả danh Công an để lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3. Một số khuyến nghị và lưu ý đối với thí sinh khi nộp lệ phí xét tuyển theo hình thức trực tuyến

(LSVN) - Từ ngày 24/8/2022 đến 17 giờ ngày 31/8/2022, thí sinh sẽ thanh toán lệ phí xét tuyển đại học trực tuyến trên Hệ thống đăng ký xét tuyển Đại học, Cao đẳng (ĐH, CĐ) năm 2022. Vì vậy, các thí sinh cần lưu ý một số điều khi nộp lệ phí xét tuyển theo hình thức trực tuyến.

Ảnh minh họa.

Hệ thống đăng ký xét tuyển ĐH, CĐ năm 2022 (Hệ thống XT) cho phép thí sinh được lựa chọn 1 trong 15 kênh thanh toán khác nhau (cung cấp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia) để thực hiện đóng lệ phí xét tuyển, bao gồm:

- Các kênh ngân hàng: Vietcombank; Vietinbank; Agribank; BIDV; SHB; VPBank;

- Các tổ chức trung gian thanh toán: Các ngân hàng khác qua VNPT Money; Ngân lượng; KeyPay; Payoo; Napas (sau mỗi đầu mối này bao gồm hầu hết các ngân hàng đang hoạt động ở Việt Nam). Chú ý: Kênh Payoo chi cho phép giao dịch khi số tiền không nhỏ hơn 100.000 đồng.

- Các ví điện tử: VNPT Money; Momo; Viettel Money.

- Kênh thanh toán di động: VNPT Mobile Money.

Chỉ các thí sinh có đăng ký nguyện vọng xét tuyển theo phương thức xét theo điểm thi tốt nghiệp THPT mới phải thực hiện nghĩa vụ nộp lệ phí.

Thí sinh có thể tự thanh toán bằng tài khoản ngân hàng/tài khoản ví điện tử của bản thân (nếu có) hoặc nhờ người thân, thầy/cô giáo thanh toán hộ trên giao diện thanh toán của thí sinh.

Thí sinh chỉ thực hiện việc nộp lệ phí trên Hệ thống XT, không thực hiện trên bất kỳ kênh thanh toán nào khác (trường hợp phát sinh kênh thanh toán khác Bộ GDĐT sẽ có thông báo trên Hệ thống XT và các phương tiện thông tin đại chúng).

Trong trường hợp thí sinh không nhìn thấy nút "Thanh toán" tại giao diện đăng ký nguyện vọng xét tuyển có nghĩa là thời điểm đó không thuộc khoảng thời gian nộp lệ phí toán hoặc đang được tạm ẩn đi nhằm chống nghẽn hệ thống thanh toán.

Quá trình thanh toán trực tuyến phụ thuộc việc kết nối nhiều hệ thống khác nhau vì vậy thí sinh có thể gặp tình huống tắc nghẽn hệ thống. Trong trường hợp đó, thí sinh không nên cố gắng truy cập lại ngay, chờ khoảng 30 phút sau thực hiện lại.

Một số khuyến nghị đối với thí sinh:

- Thí sinh truy cập bằng máy tính cá nhân hoặc máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh để thực hiện thao tác thanh toán. Nên sử dụng thiết bị có màn hình đủ lớn (độ phân giải full HD 1920x1080) để việc thao tác thuận tiện.

- Nên sử dụng trình duyệt Google Chrome hoặc FireFox phiên bản mới nhất để việc thao tác được thuận lợi nhất.

- Tại một thời điểm thí sinh chỉ đăng nhập Hệ thống XT trên một thiết bị, không sử dụng tài khoản để đồng thời đăng nhập Hệ thống XT trên nhiều thiết bị khác nhau.

- Để việc thao tác thanh toán nhanh, gọn, chính xác thí sinh nên sử dụng các kênh thanh toán có hỗ trợ thanh toán nhanh bẳng QR code như: Momo, Ngân lượng, Payoo, Ví VNPT Money.

Lệ phí đăng ký xét tuyển năm nay là 20.000 đồng/nguyện vọng. Phụ huynh và thí sinh cần theo dõi lịch mở cổng thanh toán trực tuyến với các địa phương và thực hiện thanh toán theo thời gian đó. 

HÀ ANH

Hướng dẫn sử dụng căn cước công dân gắn chip để giao dịch dân sự

4. Những phạm nhân không được đưa ra khu lao động, dạy nghề ngoài trại giam từ 01/9

(LSVN) - Nghị quyết số 54/2022/QH15 của Quốc hội sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2022 và được thực hiện trong 05 năm. Trong đó, Nghị quyết quy định cụ thể những phạm nhân không được đưa ra khu lao động, dạy nghề ngoài trại giam.

Ảnh minh họa.

Nghị quyết nêu rõ, không đưa ra khu lao động, hướng nghiệp, dạy nghề ngoài trại giam những phạm nhân thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Phạm nhân phạm một trong các tội về xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;

- Phạm nhân đã bị kết án từ 02 lần trở lên;

- Phạm nhân tái phạm nguy hiểm;

- Phạm nhân là người tổ chức trong vụ án đồng phạm về tội đặc biệt nghiêm trọng;

- Phạm nhân có thời gian chấp hành án phạt tù còn lại trên 07 năm;

- Phạm nhân là người nước ngoài;

- Phạm nhân đang mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm;

- Phạm nhân dưới 18 tuổi;

- Phạm nhân từ đủ 60 tuổi trở lên;

- Phạm nhân đang xếp loại chấp hành án phạt tù loại “Kém”;

- Phạm nhân đã có hành vi trốn khỏi cơ sở giam giữ hoặc trốn khỏi cơ sở giáo dục bắt buộc;

- Phạm nhân thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 32 của Luật Thi hành án hình sự.

Khoản 3 và khoản 4 Điều 32 của Luật Thi hành án hình sự quy định như sau:

Điều 32. Chế độ lao động của phạm nhân

3. Phạm nhân bị bệnh hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì tùy mức độ, tính chất của bệnh và trên cơ sở chỉ định của y tế trại giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời gian lao động.

4. Phạm nhân được nghỉ lao động trong các trường hợp sau đây:

a) Phạm nhân bị bệnh, không đủ sức khỏe lao động và được y tế trại giam xác nhận;

b) Phạm nhân đang điều trị tại cơ sở y tế;

c) Phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi đang ở cùng mẹ trong trại giam mà bị bệnh, được y tế trại giam xác nhận;

d) Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động.

Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nơi có trại giam thực hiện thí điểm trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù tại khu lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam.

UBND cấp huyện, cấp xã nơi có khu lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với trại giam trong việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

DUY ANH

Dự thảo quy định về quan hệ phối hợp hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

5. Bổ sung một số nội dung chi trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

(LSVN) - Đây là một trong những quy định mới quan trọng tại Thông tư số 42/2022/TT-BTC ngày 06/7/2022 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Thông tư số 42/2022/TT-BTC bổ sung một số nội dung chi trong hoạt động xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật như: Xây dựng tờ trình, báo cáo tổng kết, báo cáo đánh giá thực trạng quan hệ xã hội, báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, báo cáo về rà soát các VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản; bản đánh giá thủ tục hành chính trong dự án, dự thảo văn bản,…

Quy định về việc lập đề nghị xây dựng VBQPPL thành một mục riêng với các mức chi cụ thể. Bố trí kinh phí riêng cho công tác lập đề nghị xây dựng VBQPPL, lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm với mức chi là 200 triệu. 

Đồng thời bổ sung định mức phân bổ kinh phí đối với hoạt động thẩm định, thẩm tra đề nghị xây dựng VBQPPL, dự án, dự thảo VBQPPL theo hướng tách kinh phí thẩm định, thẩm tra ra khỏi kinh phí soạn thảo đề nghị xây dựng VBQPPL, dự án, dự thảo VBQPPL.

Thông tư số 42/2022/TT-BTC cũng tăng định mức chi, bổ sung định mức chi đối với một số tài liệu trong hồ sơ dự án, dự thảo VBQPPL. 

Thông tư này cũng quy định việc tăng định mức phân bổ kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ 1.5 lên 2 lần so với quy định tại Thông tư số 338. Ngoài ra, Thông tư số 42/2022/TT-BTC cũng sửa đổi các quy định về việc thanh toán, quyết toán kinh phí theo hướng đơn giản hơn so với Thông tư cũ.

MAI HUỆ

Những khoản chi phí nào được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp?

6. Campuchia: Bắt 11 đối tượng liên quan hoạt động buôn người tại Sihanoukville

(LSVN) - Rạng sáng 26/8, lực lượng chức năng Campuchia đã triển khai chuyên án đấu tranh, trấn áp và bắt giữ 11 đối tượng liên quan hoạt động buôn người tại thành phố Sihanoukville, tỉnh Preah Sihanouk, thu giữ một số vũ khí, đạn dược.

Cảnh sát Campuchia gác tại thủ đô Phnom Penh. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN.

Theo phóng viên tại Phnom Penh, Quốc vụ khanh kiêm người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia, Đại tướng Khieu Sopheak cho biết chiến dịch cao điểm truy quét tội phạm buôn người lao động được Bộ Nội vụ triển khai thực hiện từ ngày 23/8, sau khi có đơn khiếu nại gửi đến đường dây nóng của Nhóm công tác do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Krala Hom Sar Kheng phụ trách, tố cáo vụ việc 1 phụ nữ bị một băng nhóm giam giữ tại công ty ở Sihanoukville.

Trong ngày đầu tiên của chiến dịch, cảnh sát Campuchia đã bắt giữ 5 nghi phạm người Trung Quốc và trả tự do cho 1 phụ nữ quốc tịch Malaysia. Sau khi điều tra, nắm tình hình, công an Campuchia tiếp tục bắt giữ 8 đối tượng khác và thu 1 súng ngắn. Đến 1h30 ngày 26/8, lực lượng chức năng truy xét mở rộng, bắt giữ thêm 3 đối tượng mua bán vũ khí cùng tang vật là nhiều loại súng và đạn dược...

Trước đó, ngày 25/8, Hãng thông tấn quốc gia AKP của Campuchia cho biết, Tỉnh trưởng kiêm Trưởng Ban chỉ đạo thống nhất tỉnh Preah Sihanuok Kuoch Chamroeun đã chỉ đạo các lực lượng chức năng địa phương khẩn trương điều tra các thông tin liên quan nạn buôn người và bắt, giữ người trái phép trên địa bàn tỉnh để xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

VŨ HÙNG/TTXVN

Những khoản chi phí nào được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp?

 

5. Khung hình phạt đối với tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản' được quy định như thế nào?

(LSVN) - Theo quy định của pháp luật hiện hành, tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" sẽ đối diện với những mức phạt nào?

Ảnh minh họa.

Liên quan đến vấn đề này, theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định rõ về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Theo đó, người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ96.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm; lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Theo Luật sư Cường, đối với các bị can, bị cáo bị xác định là thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cơ quan điều tra sẽ làm rõ số tiền bị chiếm đoạt là bao nhiêu, phương thức thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt là gì,...

Về việc xác định trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự, theo nguyên tắc bị can, bị cáo chiếm đoạt tài sản, phải có nghĩa vụ bồi thường, khắc phục hậu quả. Những tài sản do phạm tội mà có đều bị truy thu để trả lại cho người bị hại.

Trường hợp bị đối tượng kết án về hai hay nhiều tội danh thì tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự. Cụ thể:

- Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

- Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;

- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;

- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình.

TIẾN HƯNG

Khởi tố ông Trịnh Văn Quyết và các cá nhân có liên quan về tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản'

5.

SÁNG SỚM

1. Cán bộ, công chức phải kê khai những loại tài sản gì của mình và người thân?

(LSVN) - Theo quy định của pháp luật, cán bộ, công chức phải kê khai những loại tài sản gì của mình và người thân? Bạn đọc T.L. hỏi.

Ảnh minh họa.

Liên quan đến vấn đề này, theo Ban Nội chính Trung ương, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cán bộ, công chức không chỉ kê khai tài sản của mình mà còn phải kê khai tài sản của người thân.

Cụ thể, tại Điều 33, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập như sau: Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên theo quy định của Luật này. 

Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai trung thực về tài sản, thu nhập, giải trình trung thực về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai tài sản, thu nhập.

Theo Điều 35 quy định, cán bộ, công chức phải kê khai những loại tài sản, thu nhập sau của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên. 

Tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm: Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng; Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên; Tài sản, tài khoản ở nước ngoài; Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.

Giống như việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập của vợ/chồng, con theo quy định tại Điều 36 của Luật Phòng, chống tham nhũng. Điều 36, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định 03 phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập là kê khai lần đầu, kê khai bổ sung và kê khai hằng năm. Theo đó, mỗi hình thức kê khai lại áp dụng với đối tượng cán bộ, công chức nói riêng. Cụ thể:

- Kê khai lần đầu được thực hiện đối với những trường hợp sau đây: (a) Người đang giữ vị trí công tác quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này tại thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12/2019; (b) Người lần đầu giữ vị trí công tác quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này. Việc kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được tiếp nhận, tuyển dụng, bố trí vào vị trí công tác.

- Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12 của năm có biến động về tài sản, thu nhập, trừ trường hợp đã kê khai theo quy định tại Khoản 3, Điều 36.

- Kê khai hằng năm được thực hiện đối với những trường hợp sau đây: (a) Người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12; (b) Người không thuộc quy định tại điểm a khoản này làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác theo quy định của Chính phủ. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12.

Bên cạnh đó, việc kê khai phục vụ công tác cán bộ được thực hiện đối với những trường hợp sau đây:

- Người có nghĩa vụ kê khai quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật Phòng, chống tham nhũng khi dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác. Việc kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày trước ngày dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác;

- Người có nghĩa vụ kê khai quy định tại Khoản 4, Điều 34 của Luật này. Thời điểm kê khai được thực hiện theo quy định của pháp luật về bầu cử.

Điều 10, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, ngày 30/10/2020 của Chính phủ hướng dẫn cụ thể về người có nghĩa vụ kê khai 02 trường hợp theo quy định tại Điểm b, Khoản 3, Điều 36 của Luật Phòng, chống tham nhũng gồm:

- Các ngạch công chức và chức danh sau đây: Chấp hành viên; Điều tra viên; Kế toán viên; Kiểm lâm viên; Kiểm sát viên; Kiểm soát viên ngân hàng; Kiểm soát viên thị trường; Kiểm toán viên; Kiểm tra viên của Đảng; Kiểm tra viên hải quan; Kiểm tra viên thuế; Thanh tra viên;  Thẩm phán.

-  Những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ Phó Trưởng phòng và tương đương trở lên công tác trong một số lĩnh vực được xác định trong danh mục tại Phụ lục III được ban hành kèm theo Nghị định số 130/2020/NĐ-CP.

- Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Có thể thấy, đây là các đối tượng có cơ hội tham nhũng, có nguy cơ tham nhũng cao hơn so với các nhóm khác nên phải kiểm soát thu nhập, tài sản hằng năm.

Để thực hiện kế hoạch xác minh, tại Khoản 3, Điều 15, Nghị định 130/2020 nêu rõ: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kế hoạch xác minh được ban hành. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập tổ chức lựa chọn ngẫu nhiên người được xác minh.

Việc lựa chọn được thực hiện công khai bằng hình thức bốc thăm hoặc sử dụng phần mềm máy tính. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập mời đại diện Ủy ban kiểm tra Đảng và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp dự và chứng kiến việc lựa chọn ngẫu nhiên người được xác minh. Số lượng người được lựa chọn để xác minh ngẫu nhiên phải bảo đảm tối thiểu 10% số người có nghĩa vụ kê khai hàng năm tại mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị được xác minh, trong đó có ít nhất 01 người là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

PV

Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế

2. Trình tự, thủ tục yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng

(LSVN) - Yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là một trong những biện pháp bảo vệ an ninh mạng theo khoản 1 Điều 1 Nghị định 53/2022/NĐ-CP.

Ảnh minh họa.

Theo đó, tại Điều 19 Nghị định 53/2022/NĐ-CP quy định rõ về trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cụ thể, trường hợp áp dụng biện pháp:

- Khi thông tin trên không gian mạng được cơ quan có thẩm quyền xác định là có nội dung xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng theo quy định của pháp luật;

- Khi có căn cứ pháp luật xác định thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động kinh tế - xã hội đến mức phải yêu cầu xóa bỏ thông tin;

- Các thông tin trên không gian mạng khác có nội dung được quy định tại điểm c, điểm đ, điểm e khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng theo quy định của pháp luật.

Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an, Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông:

- Quyết định áp dụng biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này;

- Gửi văn bản yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, dịch vụ trên mạng Internet, dịch vụ gia tăng trên không gian mạng, chủ quản hệ thống thông tin xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này;

- Kiểm tra việc chấp hành thực hiện biện pháp của các chủ thể có liên quan được yêu cầu;

- Trao đổi, chia sẻ thông tin về việc thực hiện biện pháp này, trừ trường hợp nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước hoặc yêu cầu nghiệp vụ của Bộ Công an.

Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Quốc phòng quyết định áp dụng biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, an ninh quân đội theo quy định tại khoản 1 Điều này đối với hệ thống thông tin quân sự.

Nghị định 53/2022/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/10/2022.

VĂN QUANG

3. Cảnh báo buôn bán hàng giả với phương thức, thủ đoạn tinh vi

(LSVN) - Trong thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương và các lực lượng chức năng cần chủ động nắm tình hình, nhận diện vấn đề phức tạp, xây dựng triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra, điều tra, phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm về buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả nói chung và sản xuất, buôn bán thuốc giả, thực phẩm chức năng giả nói riêng. 

Theo ông Trần Đức Đông, Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ban chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (BCĐ 389) nhận định, xu hướng buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả nói chung, sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc tân dược, thực phẩm chức năng nói riêng dịch chuyển từ nhỏ lẻ, tự phát sang lợi dụng tư cách pháp nhân, thành lập công ty liên danh, liên kết trong và ngoài nước, hình thành đường dây, ổ nhóm lớn để buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất và buôn bán hàng giả với phương thức, thủ đoạn tinh vi, mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng hơn. 

Bên cạnh đó, các đối tượng đang chuyển từ hình thức sản xuất, kinh doanh mua bán, vận chuyển, giao nhận hàng hóa từ trực tiếp sang ứng dụng công nghệ số, thương mại điện tử để đặt hàng.

Do vậy, ông Trần Đức Đông cho rằng, trong thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương và các lực lượng chức năng cần chủ động nắm tình hình, nhận diện vấn đề phức tạp, xây dựng triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra, điều tra, phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm về buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả nói chung và sản xuất, buôn bán thuốc giả, thực phẩm chức năng giả nói riêng. Tập trung phương tiện, biện pháp, đánh đúng, đánh trúng các đối tượng cầm đầu, đường dây ổ nhóm, tụ điểm phức tạp nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Đồng thời, tiếp tục rà soát những khó khăn, vướng mắc về quy định pháp luật, về cơ chế phối hợp và đề xuất các kiến nghị sửa đổi bổ sung thay thế kịp thời, từng bước hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả,….

Liên quan đến công tác quản lý thị trường, đại diện Tổng cục Quản lý thị trường cho biết, những tháng cuối năm, đơn vị sẽ tiếp tục rà soát trong từng lĩnh vực để phát hiện, xử lý sai phạm, kịp thời đề xuất các giải pháp khắc phục lỗ hổng trong quản lý theo đúng các quy định pháp luật; phân công trách nhiệm và có cơ chế kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu suất công tác và thực thi đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn toàn lực lượng trên từng địa bàn, lĩnh vực.

Đặc biệt, đại diện Tổng cục Quản lý thị trường cho rằng, nâng cao ý thức toàn dân trong việc phòng, chống hàng giả, hàng nhái đặc biệt với thuốc giả là giải pháp hữu hiệu trong việc hỗ trợ cơ quan thực thi nhiệm vụ. 

Do đó, cần chú trọng làm công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sự ủng hộ chia sẻ của toàn dân đối với những hoạt động rất đặc thù của ngành công thương và lực lượng quản lý thị trường.

DUY ANH

Dự thảo quy định về quan hệ phối hợp hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

4. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

(LSVN) - Hiện nay, tình trạng khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một trong những vấn đề rất phức tạp. Một trong số những nguyên nhân gây ra tình trạng này là công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa mang lại hiệu quả. Bài viết dưới đây chỉ ra một số hạn chế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.

Ảnh minh họa.

1. Tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

Theo Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái, năm 2019, tình hình khiếu nại, tố cáo (KN, TC) của công dân vẫn diễn biến phức tạp; nhiều đoàn đông người và công dân của một số địa phương thường xuyên tập trung lên các cơ quan Trung ương khiếu nại, tố cáo dài ngày. Trên một số lĩnh vực khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp như: Liên quan đến lĩnh vực môi trường (việc quy hoạch, xây dựng, vận hành nơi tập kết, nhà máy xử lý rác thải; việc xả thải của doanh nghiệp tại một số khu công nghiệp; việc quy hoạch, xây dựng nghĩa trang; khai thác tài nguyên, khoáng sản, dự án điện năng lượng gió, mặt trời); liên quan đến đất nông - lâm trường; liên quan đến quyền của người mua nhà ở một số dự án sai phép, nhà ở trong các khu nghỉ dưỡng,…. 

Về cơ cấu, lĩnh vực khiếu nại, tố cáo không có nhiều thay đổi so với các năm trước, tập trung chủ yếu về khiếu nại liên quan đến đất đai chiếm 67,7 % tổng số đơn khiếu nại (tăng 5,9%); còn về tố cáo vẫn chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức vi phạm pháp luật trong quản lý, thực thi công vụ,... Tại một số địa phương tình hình khiếu nại có diễn biến rất phức tạp liên quan đến tranh chấp đất đai có nguồn gốc do nông, lâm trường quản lý, việc chuyển đổi mô hình chợ truyền thống, việc thu phí tại các trạm BOT, vấn đề mua bán và quản lý nhà chung cư. Đáng chú ý là một số vụ việc khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, đầu tư xây dựng khu đô thị, khu công nghiệp có quy mô lớn nhưng việc xem xét, giải quyết quyền lợi của người bị thu hồi đất chưa thấu đáo, kịp thời nên tiếp tục diễn ra rất gay gắt (điển hình là khiếu nại, tố cáo của công dân Khu đô thị Thủ thiêm, TP. Hồ Chí Minh).

Hầu hết khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp là các vụ việc cũ chưa được giải quyết dứt điểm hoặc những vụ việc đã được cơ quan nhà nước giải quyết hết thẩm quyền, các cấp, ngành kiểm tra, rà soát nhưng công dân không đồng ý tiếp tục khiếu kiện với thái độ bức xúc, gay gắt. Số liệu báo cáo của các bộ, ngành, địa phương cho thấy, so với năm 2018, tuy tổng số đơn thư các loại (khiếu nại, tố cáo; kiến nghị, phản ánh) giảm 7 %, số vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước giảm 3%, số đoàn đông người giảm 0,6% nhưng số lượt công dân đến các cơ quan nhà nước khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh tăng 4,3%.

Về tố cáo, so với năm 2018 giảm 11,3% số đơn nhưng tăng 6,6% số vụ việc thuộc thẩm quyền. Nội dung chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái trong quản lý, thực thi công vụ; bao che cho cấp dưới gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước; một số trường hợp người khiếu nại chuyển sang tố cáo, chủ yếu là do kết quả giải quyết khiếu nại chưa đáp ứng được nguyện vọng của người khiếu nại. Trong tổng số đơn tố cáo, nội dung tố cáo trong lĩnh vực hành chính chiếm tỉ lệ 66,5% (tăng 1,2% so với năm 2018); tố cáo trong lĩnh vực tư pháp chiếm tỉ lệ 5,1%, chủ yếu là tố cáo cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng thiếu khách quan trong giải quyết các vụ án; tố cáo cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng chiếm tỉ lệ 1,9% ,...

Trong tổng số quyết định hành chính về đất đai bị KN,TC thì tỷ lệ KN,TC đúng và có đúng chiếm khoảng 47,8%. Trong số các vụ được đưa ra xét xử tại Tòa án thì tỷ lệ khởi kiện đúng và đúng một phần chiếm 19,5%. Điều này cho thấy, nhiều vụ việc KN,TC của công dân là có cơ sở, việc ra quyết định hành chính và thực hiện hành vi hành chính về đất đai của các cấp chính quyền còn nhiều thiếu sót. 

2. Bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

Theo Điều 204 Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

Theo Điều 205 Luật Đất đai 2013, cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.

Như vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai cũng có chung quy định như đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác. Cụ thể, hiện nay các vấn đề liên quan như chủ thể có thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thi hành quyết định, thời hạn giải quyết… nằm trong quy định của Luật Khiếu nại 2011 và Luật Tố cáo 2018. Mặc dù pháp luật hiện nay cũng quy định khá chi tiết, đầy đủ và tương đối hợp lý các vấn đề liên quan đến giải quyết KN, TC. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế như sau:

2.1. Về giải quyết khiếu nại

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Theo quy định tại Điều 17 - 26 Luật Khiếu nại 2011 thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại được xác định cho các cá nhân cụ thể (Chủ tịch UBND các cấp, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Giám đốc sở và cấp tương đương; Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ; Bộ trưởng, Tổng thanh tra chính phủ; Chánh thanh tra các cấp; Thủ tướng Chính phủ). Điều đáng nói ở đây là pháp luật không quy định thẩm quyền giải quyết KN, TC cho tập thể cơ quan, cũng không quy định cho các cá nhân nêu trên thay mặt, đại diện cơ quan để giải quyết KN, TC đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan mình. Do đó, trong những trường hợp quyết định hành chính do cơ quan ban hành (UBND huyện ban hành quyết định cấp GCNQSDĐ, quyết định thu hồi đất,…) thì ai sẽ là người có thẩm quyền giải quyết. Nếu căn cứ vào những nghĩa trong nội dung của các quy định tại Luật khiếu nại thì Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ không có thẩm quyền giải quyết bởi vì Luật quy định chỉ được giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Chủ tịch, còn đây là quyết định của UBND mà đây lại là những quyết định hoàn toàn khác nhau. 

Thủ tục đối thoại

Theo quy định hiện nay, trường hợp người bị khiếu nại là người có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại thì đồng thời họ lại là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 17 - 23 Luật Khiếu nại. Khi thực hiện nghĩa vụ đối thoại theo quy định thì họ với tư cách là người bị khiếu nại có nghĩa vụ tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại. Nhưng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 14 thì họ với tư cách là người giải quyết khiếu nại có nghĩa vụ “tổ chức đối thoại với người khiếu nại người bị khiếu nại và cơ quan, tổ chứ,c cá nhân có liên quan”. Như vậy, hai quy định này chưa hoàn toàn thống nhất với nhau. Trong trường hợp này, người bị khiếu nại vừa có quyền ủy quyền cho người khác, vừa có nghĩa vụ phải tổ chức đối thoại. Thực tế cho thấy chủ yếu người bị khiếu nại sẽ lựa chọn việc ủy quyền. Việc này khiến cho người được ủy quyền đối thoại thường bị động và lúng túng khi thực hiện đối thoại, nhất là thực hiện thủ tục đối thoại và hướng giải quyết khiếu nại. Do đó, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả đối thoại. Mặt khác, nếu vừa là người chủ trì cuộc đối thoại vừa là một bên trong cuộc đối thoại thì ý nghĩa của cuộc đối thoại khó bảo đảm được tính khách quan và công minh. Vì vậy, cho dù áp dụng quy định nào thì thực tế vẫn dẫn đến hạn chế.

Thời hạn giải quyết khiếu nại

Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày kể từ ngày thụ lý, đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Thời hạn này là quá ngắn so với các công việc phải thực hiện trong quá trình thẩm tra, xác minh nội dung KN, như: Thu thập hồ sơ, làm việc với các cơ quan, đơn vị có liên quan, giám định chữ ký... đặc biệt là đối với các địa phương có địa bàn rộng, đi lại khó khăn. Do đó, nhiều vụ việc bị vi phạm về mặt thời gian.

Đình chỉ giải quyết khiếu nại

Điều 10, Luật Khiếu nại quy định: “Người khiếu nại có thể rút khiếu nại tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại; việc rút khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn xin rút khiếu nại phải gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khi nhận được đơn xin rút khiếu nại thì đình chỉ việc giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại”.

Hiện nay, Luật Khiếu nại mới chỉ quy định một trường hợp đình chỉ giải quyết khiếu nại đó là khi người khiếu nại rút đơn khiếu nại. Tuy nhiên, việc quy định bắt buộc người khiếu nại phải có đơn rút khiếu nại gửi người có thẩm quyền giải quyết gây nhiều khó khăn trong đình chỉ giải quyết vụ việc. 

Trên thực tế giải quyết khiếu nại ngoài trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại thì còn gặp nhiều trường hợp cần thiết phải đình chỉ giải quyết khiếu nại nhưng không có cơ sở pháp lý khiến các cơ quan giải quyết hết sức khó khăn như: Người KN là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ chưa được hoặc không được thừa kế; người KN đã được triệu tập đến lần thứ ba mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng; người KN có hành vi trốn tránh cơ quan có thẩm quyền giải quyết KN, người KN mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật. 

2.2. Về giải quyết tố cáo

Về hình thức tiếp nhận tố cáo

Điều 22 Luật Tố cáo 2018 quy định 02 hình thức tố cáo là bằng đơn tố cáo hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội thì việc quy định như vậy là không còn phù hợp và đang trở thành rào cản trong việc thực hiện quyền tố cáo và giải quyết tố cáo của người dân. Trong khi đó, vai trò của tố cáo là vô cùng quan trọng trong việc phát hiện sai sót, xử lý vi phạm, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. 

Thời hạn giải quyết tố cáo

Luật Tố cáo 2011 quy định thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo. Để việc giải quyết được kịp thời, nhanh chóng, đúng nguyên tắc, Luật tố cáo 2018 đã rút ngắn lại quy định thời hạn giải quyết tố cáo. Theo đó, thời hạn giải quyết tố cáo được quy định tại Điều 30 là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý tố cáo, đối với vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần nhưng không quá 30 ngày, đối với vụ việc đặc biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo 2 lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Thực tế, quy định này nhằm rút ngắn thời hạn giải quyết tố cáo, nâng cao hiệu quả làm việc của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đất đai, vụ việc liên quan đến lịch sử quản lý và sử dụng đất thời kỳ trước là vấn đề phức tạp do đó một số trường hợp không thể bảo đảm thời hạn giải quyết theo quy định. Nếu quy định thời hạn ngắn sẽ ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng giải quyết cũng như vi phạm về thời hạn sẽ còn xảy ra rất nhiều trên thực tế.

2.3. Bất cập chung liên quan đến cơ chế, tổ chức giải quyết KN, TC

Hiện nay, tổ chức và cơ chế giải quyết KN, TC về đất đai thiếu ổn định và bất cập so với yêu cầu thực tế. Giải quyết một vụ khiếu nại, tố cáo đòi hỏi phải có các bước điều tra, nghiên cứu, kết luận và thi hành kết luận, do đó cần một đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách. Nhất là trong lĩnh vực đất đai là một lĩnh vực khó, liên quan đến vấn đề lịch sử. Nhưng hiện nay, hầu hết cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại chủ yếu là kiêm nhiệm; khiếu nại về đất đai chủ yếu nảy sinh ở cấp huyện, xã nhưng cơ quan có thẩm quyền thụ lý giải quyết ở cấp này lại không tương ứng (trình độ, quy mô, cơ cấu). Do đó, từ việc tiếp nhận, thụ lý, đến việc giải quyết, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc… đều chưa tốt.

3. Kiến nghị hoàn thiện

3.1. Về giải quyết khiếu nại

Thứ nhất, cần bổ sung thêm thẩm quyền giải quyết khiếu nại cho Chủ tịch UBND các cấp, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Giám đốc sở và cấp tương đương, Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chánh thanh tra các cấp, Bộ trưởng, Tổng thanh tra Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền thay mặt cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan mình và giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan cấp dưới trực tiếp đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết.

Thứ hai, về đối thoại như đã phân tích, hiện cả hai quy định liên quan đều bộc lộ những bất cập. Dẫn đến vừa tốn thời gian, chi phí nhưng không đem lại hiệu quả. Do đó, cần bổ sung quy định cụ thể trong trường hợp người giải quyết khiếu nại lần đầu đồng thời là người bị khiếu nại thì không tổ chức đối thoại. 

Thứ ba, cần sửa đổi Điều 28 Luật Khiếu nại 2011 theo hướng tăng thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý, đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý, đối với vụ việc phức tạp thì thời gian có thể giải quyết có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày kể từ ngày thụ lý. 

Thứ tư, cần quy định nhiều hình thức thể hiện ý chí rút khiếu nại của người khiếu nại như bằng đơn hoặc trực tiếp qua buổi làm việc và thể hiện trong biên bản làm việc. Bổ sung quy định về xử lý các trường hợp còn bỏ ngỏ (Người KN là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ chưa được hoặc không được thừa kế; người KN đã được triệu tập đến lần thứ ba mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng; người KN có hành vi trốn tránh cơ quan có thẩm quyền giải quyết KN, người KN mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật).

3.2. Về giải quyết tố cáo

Thứ nhất, cần thiết phải bổ sung quy định về đa dạng hóa các hình thức tiếp nhận tố cáo như qua mail, fax, gọi điện…. để phù hợp với tình hình thực tiễn và sự phát triển của khoa học công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân dễ dàng thực hiện quyền tố cáo và quy định về trình tự thủ tục đối với hình thức tố cáo này.

Thứ hai, cần có quy định kéo dài hơn thời hạn giải quyết tố cáo, đồng thời quy định này không nên ấn định một trường hợp mà cần quy định nhiều trường hợp theo từng nhóm “phạm vi, tính chất” tố cáo mới bảo đảm.

3.3. Về cơ chế chung

Nghiên cứu đổi mới cơ cấu tổ chức của bộ phận có trách nhiệm trong giải quyết KN, TC. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ, thay thế cán bộ kiêm nhiệm bằng cán bộ chuyên môn. Có cơ chế kiểm tra thường xuyên, tăng cường phát hiện và xử lý nghiêm vi phạm liên quan.

VĂN LINH

Tòa án Quân sự Khu vực Hải quân

Những khoản chi phí nào được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp?

5. Đề xuất thời gian và nội dung huấn luyện nghiệp vụ chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất tại dự thảo Thông tư quy định về công tác huấn luyện nghiệp vụ chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của lực lượng Công an nhân dân của Bộ Công an. 

Ảnh minh họa.

Trong đó, dự thảo quy định cụ thể thời gian và nội dung huấn luyện cho từng đối tượng.

Đối tượng 1: Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Thời gian huấn luyện là 80 giờ.

Đối tượng 2: Trưởng Công an, Phó Trưởng Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương phụ trách công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nơi có Đội Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trực thuộc đã được trang bị xe chữa cháy. Thời gian huấn luyện là 40 giờ.

Đối tượng 3: Đội trưởng, Phó Đội trưởng Đội Công tác chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Đội Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ khu vực, Đội Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên sông thuộc Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Đội trưởng, Phó Đội trưởng Đội Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thuộc Công an cấp huyện đã được trang bị xe chữa cháy. Thời gian huấn luyện là 300 giờ.

Đối tượng 4: Cán bộ, chiến sĩ chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Thời gian huấn luyện là 400 giờ.

Đối tượng 5: Lái xe, tàu, xuồng, ca nô chữa cháy; lái xe chuyên dùng phục vụ chữa cháy. Thời gian huấn luyện là 80 giờ.

Thời gian huấn luyện nâng cao bảo đảm ít nhất bằng 1/3 thời gian huấn luyện cả năm.

THU HƯƠNG

Những khoản chi phí nào được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp?

6. Nhiệm vụ và quyền hạn về báo chí của Sở Thông tin và Truyền thông

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 11/2022/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Thông tin và Truyền thông thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc UBND cấp huyện.

Ảnh minh họa.

Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản, in, phát hành; phát thanh, truyền hình; thông tin điện tử; thông tin đối ngoại; thông tin cơ sở; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện; công nghiệp công nghệ thông tin; ứng dụng công nghệ thông tin; an toàn thông tin mạng; giao dịch điện tử, chuyển đổi số tại địa phương.

Trong đó, Thông tư 11/2022/TT-BTTTT nêu rõ nhiệm vụ và quyền hạn về báo chí (bao gồm báo in, tạp chí in, báo điện tử, tạp chí điện tử, phát thanh, truyền hình, bản tin) của Sở Thông tin và Truyền thông như sau:

- Quản lý báo chí lưu chiểu theo quy định và tổ chức kiểm tra báo chí lưu chiểu tại địa phương;

- Trình cấp có thẩm quyền hoặc thực hiện theo thẩm quyền việc cấp giấy phép, thay đổi nội dung ghi trong giấy phép, thu hồi giấy phép xuất bản bản tin cho các cơ quan, tổ chức ở địa phương theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

- Trình cấp có thẩm quyền trả lời hoặc trả lời thông báo tổ chức họp báo tại địa phương đối với các cơ quan, tổ chức, công dân của địa phương, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

- Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra các điều kiện hoạt động của văn phòng đại diện; trường hợp không đủ điều kiện, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có văn bản yêu cầu cơ quan báo chí chấm dứt hoạt động của văn phòng đại diện và xử lý theo quy định của pháp luật;

- Tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp phát thanh, truyền hình của địa phương sau khi được phê duyệt;

- Quản lý các dịch vụ phát thanh, truyền hình; quản lý và cấp đăng ký thu tín hiệu truyền hình nước ngoài trực tiếp từ vệ tinh trên địa bàn địa phương theo quy định của pháp luật.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2022. Thông tư này thay thế Thông tư liên tịch số 06/2016/TTLT-BTTTT-BNV ngày 10/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Thông tin và Truyền thông thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.

HỒNG HẠNH

Chức năng, nhiệm vụ của Sở Thông tin và Truyền thông
7.

 

 

THỨ 7

SÁNG

1. Không để lạm thu trong năm học mới

(LSVN) - Bước vào năm học mới, nỗi lo lạm thu của nhà trường không khỏi làm phụ huynh học sinh lo lắng. Bởi những năm trước đây, tình trạng lạm thu tại các trường xảy ra phổ biến, có nơi đã trở thành điểm nóng làm phụ huynh học sinh phản ứng dữ dội. Liên tiếp các cuộc thanh tra, kiểm tra tình trạng lạm thu tại các trường được thực hiện; nhiều Hiệu trưởng bị đình chỉ công tác, có trường hợp bị xử lý kỷ luật, cách chức và khởi tố,…vì liên quan đến tình trạng lạm thu.

Ảnh minh họa.

Tình trạng lạm thu đã và đang gây ra hệ lụy xấu, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục. Lạm thu thường xảy ra ở những trường có chất lượng cao, ở đô thị, trường điểm, trường chuyên…, bởi vì yêu cầu và nhiệm vụ tại các trường này là phải nâng cao chất lượng giáo dục so với các trường khác. Do đó, việc phát sinh những khoản thu để phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giáo dục là không thể tránh khỏi. Nhưng xét ở góc độ nào đó, thì việc lạm thu cũng xuất phát từ việc trang bị các điều kiện, cơ sở vật chất cần thiết để phục vụ hoạt động dạy học được tốt hơn. Nhưng một số trường chưa thực hiện tốt việc công khai, minh bạch đối với các khoản thu, chưa thực hiện tốt việc phát huy dân chủ như hạn chế quyền của phụ huynh học sinh được tham gia thảo luận, góp ý đối với các khoản thu của nhà trường.

Bên cạnh đó, việc thu những khoản đóng góp tự nguyện thì phải để phụ huynh tự nguyện không nên yêu cầu hoặc bắt buộc phụ huynh phải đóng góp mức tối thiểu hoặc tối đa. Nhiều khoản thu tự nguyện đều do Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp thống nhất từ trước và thông báo với toàn thể phụ huynh, nhiều phụ huynh chưa kịp có ý kiến thì đã biểu quyết thông qua… Do đó, đây cũng là một trong những lý do gây ra sự bức xúc của phụ huynh đối với khoản thu của nhà trường.

Ngoài ra, một số nhà trường tự đặt ra một số khoản thu không phục vụ nhu cầu trực tiếp của học sinh như thu kinh phí để mua máy tính xách tay cho giáo viên chủ nhiệm; để xây dựng, sửa chữa trường lớp hoặc để giáo viên đi tham quan, du lịch…trong khi đó, những khoản kinh phí phục vụ cho những việc này phải do ngân sách nhà nước đảm bảo.

Phụ huynh phản đối việc lạm thu của nhà trường là việc làm chính đáng để đảm bảo các khoản thu của nhà trường phải phục vụ trực tiếp nhu cầu học tập của học sinh, đồng thời, phải xét đến điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình học sinh. Mặt khác, khi phát sinh những khoản thu đầu năm nhiều trường chưa tổ chức công khai rộng rãi, nhiều phụ huynh thiếu thông tin dẫn đến nghi ngờ là không thể tranh khỏi.

Chính vì vậy, ngành giáo dục cần phải chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa để chấn chỉnh tình trạng lam thu; các trường cần phải tăng cường phát huy dân chủ trong việc bàn bạc, thỏa thuận các khoản thu tự nguyện giữa nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh và phụ huynh học sinh. Mặt khác, cần phát huy vai trò của Ban đại diện cha mẹ học sinh trong việc thu các khoản đóng góp tự nguyện; khi thu phải xét đến điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình học sinh không nên cào bằng các khoản thu và quan trọng là hãy để phụ huynh đóng góp tự nguyện theo đúng bản chất của nó, tránh tình trạng áp đặt, gây hiểu lầm và phản ứng của phụ huynh học sinh như những năm học vừa qua.

MINH ĐỨC

Dự thảo quy định về quan hệ phối hợp hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

2. Phụ cấp nghỉ việc trong thời gian điều trị tối đa 6 tháng lương

(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hànhThông tư 50/2022/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 119/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng và Nghị định số 20/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 119/2015/NĐ-CP. Trong đó quy định phụ cấp nghỉ việc trong thời gian điều trị tối đa 6 tháng lương.

Ảnh minh họa.

Thông tư nêu rõ, khi người lao động bị thương tật, chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phát sinh do thực hiện công việc thi công trên công trường thuộc trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có trách nhiệm chi trả những khoản tiền theo thỏa thuận giữa nhà thầu thi công và người lao động hoặc đại diện hợp pháp của người lao động (trong trường hợp người lao động đã chết), bao gồm các khoản chi trả sau: 

Phụ cấp nghỉ việc trong thời gian điều trị theo chỉ định của bác sĩ điều trị được tính căn cứ vào mức tiền lương theo hợp đồng lao động nhưng không vượt quá 06 tháng lương trong mỗi sự kiện bảo hiểm.

Chi phí y tế thực tế bao gồm: chi phí cấp cứu, chi phí điều trị nội, ngoại trú cần thiết và hợp lý nhưng không vượt quá 100 triệu đồng/người/vụ.

Trường hợp người lao động bị suy giảm khả năng lao động dưới 81%, mức bồi thường cụ thể cho từng loại thương tật, thiệt hại về người được xác định theo Bảng tỷ lệ trả tiền bồi thường bảo hiểm bắt buộc đối với người lao động thi công trên công trường theo Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư này.

Trường hợp người lao động bị chết hoặc suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả 100 triệu đồng/người/vụ.

Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm không vượt quá tổng số tiền bảo hiểm quy định trong hợp đồng bảo hiểm.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ 01/10/2022.

MAI HUỆ

Bộ Y tế điều chỉnh, bổ sung các cuộc thanh tra theo kế hoạch năm 2022

3. Mô hình điển hình về phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở hoạt động hiệu quả

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại hướng dẫn tiêu chí huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật thuộc Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới, tiêu chí tiếp cận pháp luật thuộc Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 - 2025 và tiêu chí quận, thị xã, thành phố đạt chuẩn tiếp cận pháp luật thuộc tiêu chí quận, thị xã, thành phố thuộc cấp tỉnh đạt chuẩn đô thị văn minh mà Bộ Tư pháp vừa ban hành.

Ảnh minh họa.

Để đạt các yêu cầu theo nội dung 16.1 của  tiêu chí 16 "Tiếp cận pháp luật" tại Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025, xã phải có đồng thời mô hình điển hình về phổ biến, giáo dục pháp luật và mô hình điển hình về hòa giải ở cơ sở hoạt động hiệu quả. Cụ thể như sau:

Mô hình điển hình về phổ biến, giáo dục pháp luật hoạt động hiệu quả phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: (i) Tiêu chí 2 "Tiếp cận thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật" theo quy định của Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và Thông tư số 09/2021/TT-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg đạt điểm số tối đa; (ii) Huy động được nguồn lực hỗ trợ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; (iii) Có văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp huyện hướng dẫn, khuyến khích nhân rộng; trong 05 năm gần nhất tính đến thời điểm đánh giá, được cơ quan có thẩm quyền cấp huyện trở lên tặng Giấy khen, Bằng khen hoặc hình thức khen thưởng khác vì đã có thành tích xuất sắc trong triển khai mô hình này.

Mô hình điển hình về hòa giải ở cơ sở hoạt động hiệu quả phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: (i) 100% tổ hòa giải của xã được hỗ trợ kinh phí triển khai hoạt động của tổ hòa giải và thù lao cho hòa giải viên đúng quy định pháp luật hòa giải ở cơ sở; (ii) Có hoạt động phối hợp với Tòa án nhân dân cấp huyện, Hội Luật gia cấp huyện, các lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, tổ chức, cá nhân có hiểu biết pháp luật trong tập huấn, bồi dưỡng cho hòa giải viên hoặc tham gia hỗ trợ hòa giải (ii) Có văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp huyện hướng dẫn, khuyến khích nhân rộng; trong 05 năm gần nhất tính đến thời điểm đánh giá, được cơ quan có thẩm quyền cấp huyện trở lên tặng Giấy khen, Bằng khen hoặc hình thức khen thưởng khác vì đã có thành tích xuất sắc trong triển khai mô hình này.

Bên cạnh đó, Hướng dẫn còn quy định cụ thể cách tỷ lệ mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở được hòa giải thành; tỷ lệ người dân thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý tiếp cận và được trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu tại nội dung 16.1, 16.2 của  tiêu chí 16 "Tiếp cận pháp luật" tại Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025.

Số liệu phục vụ chấm điểm tiêu chí cấp huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, tiêu chí tiếp cận pháp luật thuộc Bộ tiêu chí quốc gia xã nông thôn mới nâng cao tính từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 của năm trước liền kề năm đánh giá.

Trình tự, thủ tục đánh giá, công nhận huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, tiêu chí tiếp cận pháp luật trong Bộ tiêu chí xã nông thôn mới nâng cao được thực hiện thống nhất trong quy trình chung về đánh giá địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao (đối với huyện, xã) và quy trình về đánh giá đạt chuẩn đô thị văn minh (đối với quận, thị xã, thành phố thuộc cấp tỉnh) theo quy định tại Quyết định số 18/2022/QĐ-TTg và Quyết định số 04/2022/QĐ-TTg mà không thiết kế thành quy trình riêng nhằm giảm thiểu công việc, không tạo áp lực, phù hợp với điều kiện tinh gọn bộ máy tổ chức, biên chế và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương.

Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả. Nếu có vấn đề phát sinh hoặc vướng mắc, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về Sở Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Bộ Tư pháp nghiên cứu, giải quyết.

DUY NGUYỄN

Bàn về người đại diện của cá nhân trong tố tụng hình sự

4. Hướng dẫn về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ

(LSVN) - Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) đã ban hành Thông tư 12/2022/TT-BTTTT quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Nghị định 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ.

Ảnh minh họa.

Theo Cục An toàn thông tin, Bộ TT&TT, Thông tư 12 cập nhật hướng dẫn chi tiết và điều chỉnh nội dung cho phù hợp với tình hình thực tế sau 5 năm triển khai Thông tư 03 của Bộ TT&TT. Thông tư mới cũng đồng bộ quy định về đảm bảo an toàn thông tin theo cấp độ với Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 11930:2007 như: Việc xác định chủ quản hệ thống thông tin theo tiêu chí cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án xây dựng, thiết lập, nâng cấp, mở rộng hệ thống thông tin đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước; về thuyết minh cấp độ an toàn hệ thống thông tin khi thực hiện được đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng, nâng cấp hệ thống thông tin và thời điểm phê duyệt Hồ sơ đề xuất cấp độ.

Cụ thể, theo Thông tư mới, trường hợp bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định chủ quản hệ thống thông tin là cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án xây dựng, thiết lập, nâng cấp, mở rộng hệ thống thông tin đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước, thì phải bảo đảm điều kiện cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ chủ quản hệ thống thông tin có đủ năng lực để thực thi đầy đủ các quy định tại Điều 20 của Nghị định 85/2016/NĐ-CP.

Hệ thống thông tin khi được đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng, nâng cấp phải triển khai đầy đủ phương án bảo đảm an toàn thông tin đã được phê duyệt tại Hồ sơ đề xuất cấp độ và đáp ứng các yêu cầu an toàn hệ thống thông tin khi đưa vào vận hành, khai thác; quy chế bảo đảm an toàn thông tin phải được cấp có thẩm quyền ban hành trước khi Hồ sơ đề xuất cấp độ được phê duyệt…

Bên cạnh đó, Thông tư 12 cũng quy định, các nội dung kiểm tra đánh giá an toàn thông tin gồm kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ; kiểm tra, đánh giá hiệu quả của các biện pháp bảo đảm an toàn thông tin theo phương án bảo đảm an toàn thông tin được phê duyệt; kiểm tra, đánh giá phát hiện mã độc, lỗ hổng, điểm yếu, thử nghiệm xâm nhập hệ thống thông tin.

Trong đó, kiểm tra, đánh giá phát hiện mã độc, lỗ hổng, điểm yếu, thử nghiệm xâm nhập hệ thống thông tin, gồm 3 hình thức gồm Black-Box, Gray-Box, White-box và phần mềm nội bộ cần đánh giá an toàn mã nguồn (code review)…

Theo thống kê của Cục An toàn thông tin, tính đến hết tháng 6/2022, đã có 922/3.022 hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước được phê duyệt Hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn thông tin, đạt 31%.

Tại Chỉ thị 02/CT-TTg ngày 26/4/2022 về phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương hoàn thành việc phân loại, xác định và phê duyệt đề xuất cấp độ hệ thống thông tin vào tháng 12/2022 và đến tháng 6/2023 triển khai đầy đủ phương án bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ.

Cục An toàn thông tin nhận định, việc Thông tư 12 được ban hành và áp dụng trong thời gian tới, sẽ góp phần tạo thuận lợi cho các Bộ, ngành và địa phương trong việc triển khai công tác bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ.

Thông tư 12/2022/TT-BTTTT có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2022, Thông tư này thay thế cho Thông tư 03/2017/TT-BTTTT ngày 24/4/2017.

HÀ ANH

Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế

5. Điều kiện, tiêu chuẩn xét tặng Kỷ niệm chương 'Vì sự nghiệp Thanh tra'

(LSVN) - Thanh tra Chính phủ đang lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư quy định xét tặng Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Thanh tra".

Theo đó, dự thảo quy định điều kiện, tiêu chuẩn xét tặng Kỷ niệm chương như sau: Cá nhân là Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ có thời gian công tác trong ngành Thanh tra từ 04 năm trở lên, tính đến năm đề nghị xét tặng.

Cá nhân là công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, người lao động đã và đang công tác trong các cơ quan Thanh tra Nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có thời gian làm công tác thanh tra từ 10 năm trở lên tính đến ngày 23/11 của năm đề nghị xét tặng. Trường hợp cá nhân được xét tặng không công tác liên tục trong ngành Thanh tra thì cộng dồn thời gian làm công tác thanh tra để xét tặng Kỷ niệm chương.

Đối với các cá nhân thuộc đối tượng tại khoản 2 Điều 4 là cá nhân có thành tích trong việc lãnh đạo, chỉ đạo góp phần vào sự nghiệp xây dựng, phát triển ngành Thanh tra Việt Nam:

- Lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều công lao đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển Thanh tra Việt Nam;

- Cá nhân thuộc đối tượng quy định tại điểm b, điểm c phải có thời gian giữ chức vụ ít nhất từ 05 năm trở lên và có ít nhất 04 năm phụ trách hoặc theo dõi công tác thanh tra;

- Cá nhân thuộc đối tượng quy định tại điểm d, điểm đ phải có thời gian giữ chức vụ ít nhất từ 10 năm trở lên và có ít nhất 08 năm phụ trách hoặc theo dõi công tác thanh tra.

Các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 4 là cá nhân khác (bao gồm cả người ngước ngoài) có đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của ngành Thanh tra do Tổng Thanh tra Chính phủ quyết định.

Dự thảo cũng đề xuất 5 trường hợp được ưu tiên xét tặng Kỷ niệm chương:

- Cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, người lao động công tác trong cơ quan thanh tra nhà nước được ưu tiên xét tặng Kỷ niệm chương khi có một trong các điều kiện quy định tại Điều này và chỉ tính thành tích cao nhất;

- Cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được xét tặng ngay sau khi có quyết định khen thưởng;

- Cá nhân được tặng Huân chương Lao động các loại, Chiến sĩ thi đua toàn quốc được đề nghị xét tặng sớm hơn 02 năm;

- Cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ hoặc được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh được đề nghị xét tặng sớm hơn 01 năm;

- Cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Tổng Thanh tra Chính phủ hoặc được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở được đề nghị xét tặng sớm hơn 06 tháng.

PV

Bàn về người đại diện của cá nhân trong tố tụng hình sự

6. 

 

 

CHIỀU

1. Bổ sung quy định về miễn lệ phí đăng ký, phí duy trì sử dụng tên miền

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất tại dự thảo Thông tư quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí duy trì sử dụng tên miền và địa chỉ Internet, lệ phí đăng ký sử dụng tên miền quốc gia ".vn" và lệ phí đăng ký sử dụng địa chỉ Internet (IP), thay thế Thông tư 208/2016/TT-BTC mà Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân.

Ảnh minh họa.

Trong đó, dự thảo đề xuất miễn phí có thời hạn 2 năm trong đăng ký sử dụng tên miền dưới "id.vn" đối với chủ thể cá nhân là công dân Việt Nam có tuổi đời từ 18-23 tuổi nhằm thu hút khách hàng, tạo cộng đồng sử dụng tên miền ".vn" rộng lớn, hướng tới chiến lược phổ cập tên miền ".vn".

Miễn phí có thời hạn 2 năm trong đăng ký sử dụng tên miền dưới "biz.vn" đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh có giấy phép đăng ký kinh doanh để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, phát triển kinh tế số.

Về quản lý và sử dụng phí, lệ phí, dự thảo đề xuất: Tổ chức thu phí được trích 85% (thay cho mức 90% hiện hành) số tiền phí thu được để chi phí cho việc cấp đăng ký và quản lý, duy trì phát triển hoạt động tên miền quốc gia ".vn".

Số còn lại 15% (thay cho mức 10% hiện nay) tổng số tiền phí thu được nộp vào NSNN.

HOA LÊ

Cảnh giác với hành vi giả danh Công an để lừa đảo chiếm đoạt tài sản

2. Đề xuất các điều kiện để trang trại được hỗ trợ phát triển kinh tế

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất tại dự thảo Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ảnh minh họa.

Theo dự thảo, các trang trại được hỗ trợ phải đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:

- Phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

- Có giấy chứng nhận hoặc cam kết bảo đảm các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh và bảo vệ môi trường.

- Có giấy chứng nhận kinh tế trang trại (trừ trường hợp hưởng hỗ trợ lập dự án kinh tế trang trại).

- Đối với hỗ trợ trang trại chăn nuôi áp dụng hệ thống chuồng công nghiệp: Trang trại chăn nuôi không thuộc đối tượng sở hữu là doanh nghiệp; có dự án chăn nuôi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; áp dụng hệ thống chuồng kín đối với chăn nuôi lợn, gia cầm hoặc chuồng công nghiệp đối với chăn nuôi gia súc ăn cỏ.

- Các điều kiện quy định tại các văn bản khác (đối với trường hợp đề nghị hưởng chính sách hỗ trợ tại văn bản đó).

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, hiện nay nước ta có khoảng 16 triệu hộ nông thôn và trên 1 triệu hộ thành thị hoạt động nông, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản, chủ yếu sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán, giá trị sản xuất thấp và có nhiều rủi ro. Tuy nhiên cũng có nhiều hộ nông dân tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại với quy mô đất đai lớn theo hướng sản xuất tập trung, áp dụng khoa học công nghệ và mang lại giá trị kinh tế cao, ít rủi ro hơn.

Theo báo cáo của các địa phương, đến hết năm 2021 cả nước có 18.945 trang trại đạt tiêu chí quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Diện tích đất bình quân của các trang trại là 3,52 ha/trang trại. Tổng số lượng lao động thường xuyên của trang trại bình quân 3,8 lao động/trang trại, trong đó chủ yếu là chủ trang trại và các thành viên trong gia đình; một số trang trại có thuê mướn lao động bên ngoài chủ yếu là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Giá trị vốn đầu tư và vốn sản xuất kinh doanh bình quân năm 2021 là 2.430 triệu đồng/trang trại.

Tổng giá trị sản xuất bình quân của trang trại năm 2021 đạt 3.513 triệu đồng/năm. Thu nhập bình quân lao động thường xuyên làm việc trong trang trại đạt 4,9 triệu đồng/người/tháng. Trong số các trang trại nông nghiệp, trang trại chăn nuôi chiếm tỷ lệ lớn nhất (chiếm 62,3%), tiếp đến là trồng trọt (18,3%). Các trang trại tập trung nhiều ở vùng Đông Nam Bộ bình quân 605 trang trại/tỉnh), Đồng bằng sông Hồng (bình quân 554 trang trại/tỉnh), Tây nguyên bình quân 433 trang trại/tỉnh).

HOA LÊ

Nhanh chóng xử lý hoàn thuế đối với các trường hợp hàng hóa nhập khẩu tại chỗ

3. Một số điểm mới trong dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi

(LSVN) - Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ bổ sung các quy định: Đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hóa, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế;...

Ảnh minh họa.

Cụ thể, Dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước (TNN) trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của Nhà nước.

Tách bạch quản lý tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước

Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về TNN với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy,...); đồng thời, giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các Luật.

Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; quy định cụ thể về bảo vệ nguồn nước quan trọng cấp cho sinh hoạt; quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí, bảo vệ nguồn nước trong các hoạt động khai thác, sử dụng nước.

Dự thảo Luật bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hóa theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của Nhà nước hướng tới nhà nước quản lý, doanh nghiệp thực hiện và dần dịch chuyển theo hướng Nhà nước chỉ ban hành chính sách và hậu kiểm.

Bổ sung quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển TNN, trong đó, quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hóa, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển TNN. Với quan điểm là phát triển kinh tế gắn liền với việc "đầu tư lại" trong công tác bảo vệ, phát triển TNN, cải tạo cảnh quan, bảo tồn giá trị của hệ sinh thái liên quan đến nước.

Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng kinh tế

Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác TNN, nâng cao ý thức bảo vệ TNN, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước.

Dự thảo Luật bổ sung quy định về đối tượng và nội dung về thu trữ nước mưa và việc sử dụng nước mưa tại các khu vực thường xuyên hạn hán thiếu nước và vùng thường xuyên ngập lụt; quy định cơ chế, chính sách trong việc thu trữ nước mưa.

Bổ sung, cập nhật quy định theo hướng kiểm soát toàn diện các hoạt động có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn nước, đến ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ chứa, ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái ven sông,…

Bổ sung quy định về phân vùng chức năng nguồn nước; quy định nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ đảm bảo giám sát khai thác, sử dụng nước của công trình... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông.

Xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước

Ngoài ra, Dự thảo Luật bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,... tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.

Quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hòa, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, một số nội dung được chỉnh sửa, bổ sung mới như: Hệ thống thông tin, dữ liệu TNN; bảo vệ nước dưới đất; các loại hình công trình khai thác, công trình sử dụng nước phải có giấy phép; bổ sung nhân tạo nước dưới đất; phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo; bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, hồ; phương án xử lý đối với các công trình khai thác sử dụng nước kém hiệu quả gây suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.

THU HƯƠNG

Cảnh giác với hành vi giả danh Công an để lừa đảo chiếm đoạt tài sản

4. VKSND Tối cao thông báo rút kinh nghiệm giải quyết vụ án hình sự

(LSVN) - Thông qua việc thụ lý, giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H. phạm tội "Tổ chức đánh bạc" ở ĐL, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự VKSND Tối cao nhận thấy vấn đề cần rút kinh nghiệm.

Ảnh minh họa.

Nội dung vụ án và quá trình tố tụng

Đầu năm 2019, Huỳnh Quốc V. và Bùi Hữu D. bàn bạc, thống nhất với nhau về việc tổ chức chơi số đề, cụ thể: V. chịu trách nhiệm tìm những đại lý bán vé số, người bán vé số dạo, khách vãng lai để đặt vấn đề với những người này hàng ngày nhận ghi số đề của nhiều người, sau đó chuyển số đề cho V. và D., nếu trường hợp có người muốn chơi nhưng không có tiền thì V. cho ứng trước; lãi, lỗ chia theo tỷ lệ V. 60%, D. 40%. V. và D. thuê Vũ Hiếu N. và Đàm Minh K. giúp việc tổng hợp số đề từ cấp dưới chuyển lên, tính toán số tiền thắng thua và chung tiền đề (trả lương mỗi người từ 1.200.000 đồng đến 2.000.000 đồng/tuần).

Hằng ngày, những người tổ chức đánh bạc và đánh bạc dựa vào kết quả xổ số của những đài được mở thưởng trong ngày để ghi và đánh số đề. Người đánh số đề có thể đánh 02 số dựa vào 02 số cuối của kết quả xổ số, tỷ lệ thắng, thua là 1 x 70; đánh 03 số dựa vào 03 số cuối của kết quả xổ số, tỷ lệ thắng, thua là 1 x 500; người chơi có thể lựa chọn 02 cặp số bất kỳ để đặt cược, nếu 02 cặp số đó đều có trong kết quả xổ số thì trúng tỷ lệ 1 x 500 hoặc đánh 03 cặp số bất kỳ nếu cả 03 cặp số đều có trong kết quả xổ số thì trúng tỷ lệ 1 x 3.500. Ngoài ra, người chơi có thể lựa chọn bất kỳ lô (giải) nào để đặt cược thông thường hay đặt cược đầu (giải 8), kề (giải nhất), đặc biệt (giải đặc biệt) hay chọn tất cả các lô trong một đài (gọi là đánh bao lô).

Trong ngày 01/4/2019, Nguyễn Cửu Thị Kim H. nhận ghi số đề Đài Phú Yên của Lê Thị N. tương ứng số tiền 25.200.000 đồng rồi nhắn tin chuyển số ghi đề vào số điện thoại của người đàn ông tên G. (trước đó V. nói với H. nhắn tin chuyển vào số điện thoại này). Kết quả, không có số ghi đề nào trúng nhưng do Lê Thị N. ghi nợ, chưa giao tiền cho H. nên H. chưa chuyển tiền cho V.

Ngày 02/4/2019, V. và đồng bọn đã nhận số ghi đề của những người sau: Nguyễn Thị Y., Trần Thị Hoàng A., Lương Mỹ T., Đàm Trương Đ., Nguyễn Văn C., đối tượng G., đối tượng B., đối tượng K. (không xác định được nhân thân lai lịch), Vũ Thị N., Ngô Thị Kim P. và Nguyễn Cửu Thị Kim H. Tổng số tiền ghi đề V. và đồng bọn đã nhận của những người trên được xác định đối với Đài Đắk Lắk là 136.611.000 đồng, Đài Quảng Ninh là 285.840.000 đồng và Đài Quảng Nam là 543.000 đồng. Kết quả, các đầu dưới trúng Đài Đắk Lắk là 54.950.000 đồng, Đài Quảng Ninh trúng 122.170.000 đồng, còn Đài Quảng Nam không trúng. Do đó, số tiền đánh bạc của V. và đồng bọn được xác định đối với Đài Đắk Lắk là 191.561.000 đồng và Đài Quảng Ninh là 408.010.000 đồng.

Đầu năm 2019, do biết H. có ghi số đề nên Huỳnh Quốc V. trao đổi với H. nhận ghi số đề rồi chuyển cho V. để hưởng hoa hồng thì H. đồng ý. Hằng ngày, H. sử dụng 02 số điện thoại nhắn tin chuyển số đề cho V.

Ngày 01/4/2019, H. nhận số đề Đài Phú Yên của Lê Thị N. qua tin nhắn của 02 số điện thoại tương ứng số tiền 25.740.000 đồng. Sau đó, H. nhắn tin chuyển số đề cho G qua số điện thoại là 25.200.000 đồng và hưởng hoa hồng tương ứng 540.000 đồng.

Ngày 02/4/2019, H. nhận số đề Đài Đắk Lắk của Lê Thị N. tương ứng số tiền 64.350.000 đồng; sau đó, H. nhắn tin chuyển số đề cho G. qua số điện thoại (V. chịu trách nhiệm thắng thua với H.) tương ứng số tiền 63.000.000 đồng và hoa hồng tương ứng 1.350.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2020/HS-ST ngày 28/7/2020, TAND tỉnh ĐL áp dụng điểm a, c khoản 1, Điều 322; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự xử phạt: Bị cáo Bùi Hữu D. 02 năm 03 tháng tù về tội "Tổ chức đánh bạc"; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Cửu Thị Kim H. 01 năm tù về tội "Tổ chức đánh bạc".

Sau phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H. kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 140/2021/HS-PT ngày 11/3/2021, TAND Cấp cao tại ĐN áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Bùi Hữu D. 02 năm 03 tháng tù về tội "Tổ chức đánh bạc", nhưng cho hưởng án treo; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Cửu Thị Kim H. 01 năm tù về tội "Tổ chức đánh bạc", nhưng cho hưởng án treo.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Tòa án hai cấp xét xử Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H. về tội "Tổ chức đánh bạc" theo quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng pháp luật. Bị cáo Bùi Hữu D. nguyên là cán bộ Công an huyện KB trong quá trình công tác có nhiều thành tích, 02 năm đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở, quá trình giải quyết vụ án thành khẩn khai báo, gia đình có công với cách mạng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, v khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Nguyễn Cửu Thị Kim H. bị bệnh cao huyết áp, quá trình giải quyết vụ án thành khẩn khai báo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuy nhiên, xét về vai trò, D. cùng bàn bạc, thống nhất và cùng thực hiện tội phạm với V. nên thuộc nhóm đối tượng chỉ huy, cầm đầu có vai trò ngang nhau, cao hơn vai trò của Vũ Hiếu N. và Đàm Minh K. là người được V. và D. thuê để giúp việc tổng hợp số đề từ cấp dưới chuyển lên, tính số tiền thắng thua, thu và chung tiền số đề, nhưng N. bị xử phạt 01 năm 06 tháng tù, K. bị xử phạt 02 năm tù, còn D. được hưởng án treo là không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và không công bằng trong phân hóa vai trò của các bị cáo khi áp dụng hình phạt. Hơn nữa, bị cáo Bùi Hữu D. thuộc nhóm đối tượng chỉ huy, cầm đầu nên không được hưởng án treo theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.

Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H. nhiều lần thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì không thuộc trường hợp được hưởng án treo.

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Bùi Hữu D. 02 năm 03 tháng tù và Nguyễn Cửu Thị Kim H. 01 năm tù về tội "Tổ chức đánh bạc" là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H hưởng án treo là không đúng quy định của pháp luật.

VKSND Cấp cao tại ĐN có quan điểm phù hợp khi đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không cho bị cáo Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H. được hưởng án treo, giữ nguyên hình phạt của Bản án hình sự thẩm. Báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của VKSND Cấp cao tại ĐN là có cơ sở.

Ngày 23/6/2021, Viện trưởng VKSND Tối cao đã ban hành Kháng nghị giám đốc thẩm số 20/QĐ-VKSTC ngày 23/6/2021, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy phần quyết định về hình phạt của Bản án hình sự phúc thẩm số 140/2021/HS-PT ngày 11/3/2021 của TAND Cấp cao tại ĐN, giữ nguyên phần quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2020/HS-ST ngày 28/7/2020 của TAND tỉnh ĐL đối với Bùi Hữu D. và Nguyễn Cửu Thị Kim H.

Ngày 08/6/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên VKSND Tối cao trình bày quan điểm kháng nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao là có cơ sở và đúng pháp luật. Tuy nhiên, ngày 15/4/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2022/NQ HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo. Theo đó, Nghị quyết số 01 đã sửa đổi khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao quy định những trường hợp không được hưởng án treo:

“5. Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp...

c) Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể".

Bị cáo Nguyễn Cửu Thị Kim H. có hành vi nhận ghi số đề rồi chuyển cho bị cáo V., D. để hưởng hoa hồng nên thuộc trường hợp nêu trên. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 01 quy định "Đối với hành vi phạm tội xảy ra trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà vụ án đang trong quá trình xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm, xét xử tái thẩm thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết". Do đó, VKSND Tối cao quyết định rút một phần kháng nghị đối với bị cáo Nguyễn Cửu Thị Kim H. Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao, hủy phần quyết định về hình phạt của Bản án hình sự phúc thẩm số 140/2021/HS-PT ngày 11/3/2021 của TAND Cấp cao tại ĐN, giữ nguyên phần quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2020/HS-ST ngày 28/7/2020 của TAND tỉnh ĐL đối với bị cáo Bùi Hữu D.

PV

VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm về kiểm sát giải quyết vụ án 'Tranh chấp hợp đồng tín dụng'

5. Đẩy nhanh tiến độ lồng ghép giáo dục tài chính vào giáo dục phổ thông quốc gia

(LSVN) - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện (Ban Chỉ đạo) yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo đẩy nhanh tiến độ lồng ghép giáo dục tài chính vào giáo dục phổ thông quốc gia để góp phần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức, tạo ra phong trào thiết thực, hiệu quả đối với sinh viên, học sinh, hài hòa lợi ích của cá nhân và lợi ích quốc gia.

Ảnh minh họa.

Đây là nội dung Thông báo số 261/TB-VPCP ngày 23/8/2022 kết luận của Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện tại Phiên họp lần thứ nhất.

Theo đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện (Ban Chỉ đạo) yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo đẩy nhanh tiến độ lồng ghép giáo dục tài chính vào giáo dục phổ thông quốc gia để góp phần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức, tạo ra phong trào thiết thực, hiệu quả đối với sinh viên, học sinh, hài hòa lợi ích của cá nhân và lợi ích quốc gia.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chú trọng công tác tuyên truyền, hướng dẫn, tạo điều kiện để người nông dân dễ dàng tiếp cận với khoa học, công nghệ, nguồn vốn, dịch vụ tài chính để phát triển nông nghiệp.

Bộ Ngoại giao tham khảo kinh nghiệm quốc tế, phối hợp với các cơ quan liên quan, chủ động tăng cường hợp tác trong khuôn khổ các chương trình, diễn đàn quốc tế có nội dung về tài chính toàn diện, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp chặt chẽ với với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính toàn diện.

Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ được giao tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của xã hội, trang bị kiến thức, kỹ năng cho người dân về tài chính toàn diện.

Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao tích cực triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược, cụ thể hóa các nội dung của Chiến lược tại địa phương mình; chủ động lồng ghép các mục tiêu về tài chính toàn diện vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về tài chính toàn diện để người dân và doanh nghiệp hưởng ứng, tích cực tham gia thực hiện; chỉ đạo nâng cao năng lực, chất lượng dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, nhất là các đối tượng người nghèo, người thu nhập thấp, những đối tượng yếu thế trong xã hội, người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để thực hiện thành công công cuộc xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương.

DUY ANH

Dự thảo quy định về quan hệ phối hợp hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự 

5. Tin thế giới

 

 

 

THỨ 3.

1. Trường hợp nào giá đất được trừ để tính thuế GTGT từ 12/9?

(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 49/2022/NĐ-CP, theo đó, Nghị định này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 12/9/2022. Vậy, theo quy định mới này, những trường hợp  nào giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng (GTGT)?

Nghị định số 49/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 12/2015/NĐ-CP, Nghị định số 100/2016/NĐ-CP và Nghị định số 146/2017/NĐ-CP.

Cụ thể, sửa đổi, bổ sung khoản 3, 4 Điều 4 đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, giá tính thuế giá trị gia tăng là giá chuyển nhượng bất động sản trừ (-) giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng.

Giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng được quy định cụ thể như sau:

- Trường hợp được Nhà nước giao đất để đầu tư cơ sở hạ tầng xây dựng nhà để bán, giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng bao gồm tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật về thu tiền sử dụng đất và tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng (nếu có).

- Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất trúng đấu giá.

- Trường hợp thuê đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước và tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng (nếu có).

Tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng quy định tại (1) và (3) nêu trên là số tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng theo phương án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp theo quy định pháp luật về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

- Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không bao gồm giá trị cơ sở hạ tầng. Cơ sở kinh doanh được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của cơ sở hạ tầng (nếu có). Trường hợp không xác định được giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tại thời điểm ký hơp đồng nhận chuyển nhượng.

Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận chuyển nhượng bất động sản của các tổ chức, cá nhân đã xác định giá đất bao gồm cả giá trị cơ sở hạ tầng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 4 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015) thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng không bao gồm cơ sở hạ tầng.

Trường hợp không tách được giá trị cơ sở hạ tầng tại thời điểm nhận chuyển nhượng thì giá đất được trừ để tính thuế giá tri gia tăng là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tại thời điểm ký hợp đồng nhận chuyển nhượng.

- Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá ghi trong hợp đồng góp vốn. Trường hợp giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấp hơn giá đất nhận góp vốn thì chỉ được trừ giá đất theo giá chuyển nhượng.

- Trường hợp cơ sở kinh doanh bất động sản thực hiện theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT) thanh toán bằng giá trị quyền sử dụng đất thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá tại thời điểm ký hợp đồng BT theo quy định của pháp luật; nếu tại thời điểm ký hợp đồng BT chưa xác định được giá thì giá đất được trừ là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định để thanh toán công trình.

Trường hợp xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê, giá tính thuế giá trị gia tăng là số tiền thu được theo tiến độ thực hiện dự án hoặc tiến độ thu tiền ghi trong hợp đồng trừ (-) giá đất được trừ tương ứng với tỷ lệ % số tiền thu được trên tổng giá trị hợp đồng.

HỒNG HẠNH

Cảnh báo 8 thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng2. 

Admin