/ Chưa được phân loại
/ Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam

Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam

14/07/2021 07:44 |3 năm trước

(LSVN) - Theo quan niệm truyền thống, tài sản hữu hình thường là bộ phận chủ yếu trong tổng số tài sản và đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngày nay, dưới nhận thức của các nhà kinh doanh trên thế giới, tài sản của mỗi một doanh nghiệp không chỉ còn là các tài sản hữu hình mà còn là các tài sản vô hình như giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kinh doanh, trình độ của người lao động… Thế giới đã được biết đến những nhãn hiệu nổi tiếng, mang lại cho doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu một giá trị tài sản khổng lồ như nhãn hiệu Coca Cola có giá gần 72 tỉ USD, Google (55,317 tỉ USD), Apple (33,492 tỉ USD), hp (28,479 tỉ USD)[1]… Còn ở thị trường Việt Nam, rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng cũng được nhắc đến như cà phê Trung Nguyên, kem đánh răng P/S, võng xếp Duy Lợi, phở 24, VINATABA. Tuy nhiên, việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đối với pháp luật Việt Nam còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

Chuyên gia Nguyễn Thị Minh Nhật – Công ty luật ThinkSmart.

1. Lý luận chung về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Khái niệm về nhãn hiệu

Thuật ngữ nhãn hiệu “brand” xuất phát từ người Aixơlen cổ đại với nghĩa là đốt cháy “to burn”. Theo một số nghiên cứu cho thấy, từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng nhãn hiệu để nhận biết nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ.

Theo Điều 15.1 Hiệp định TRIPS, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định như sau: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”.

Còn dưới góc độ pháp luật trong nước, trước đây, theo quy định tại Điều 785 Bộ luật Dân sự năm 1995 thì: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Nhưng đến Bộ luật Dân sự 2005 thì lại không có quy định như thế nào là nhãn hiệu mà chỉ quy định nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (Điều 750).

Hiện nay, khái niệm nhãn hiệu được quy định cụ thể tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 (sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ), điều đặc biệt là Luật Sở hữu trí tuệ không có quy định về nhãn hiệu hàng hóa riêng và nhãn hiệu dịch vụ riêng mà chỉ đưa ra một khái niệm nhãn hiệu dùng chung cho cả hai loại đó. Theo đó nhãn hiệu được hiểu “là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Dấu hiệu được nhắc đến trong khái niệm này phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới các dạng như: chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Mặt khác, các dấu hiệu này còn phải có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.

Trên cơ sở những luận cứ nêu ở trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu là những dấu hiệu có thể nhận biết được dùng để phân biệt hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh doanh này (của nhà cung ứng dịch vụ này) với hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh doanh khác (của nhà cung ứng dịch vụ khác) và chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa (dịch vụ)".

Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới là ở nước Pháp vào thế kỷ XVIII. Quan điểm này đã được cụ thể hóa trong Luật Sáng chế 1791 của Pháp với nội dung: “Bất kỳ ý tưởng mới nào, mà việc công bố và thực hiện có thể có lợi cho xã hội, sẽ thuộc về người sáng tạo ra ý tưởng đó; sẽ là sự hạn chế nhân quyền nếu không coi một sáng chế công nghiệp mới là sở hữu của người đã tạo ra sáng chế đó”.

Ngày nay, thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” đã được sử dụng một cách phổ biến trên thế giới và theo Điều 1 Công ước Paris 1883 tổng sửa đổi 1979 thì: “Sở hữu công nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm chế biến hoặc sản phẩm tự nhiên như rượu vang, ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa quả, gia súc, khoáng sản, nước khoáng, bia, hoa và bột”.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu công nghiệp là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”. Không những thế, Khoản 1 Điều 750 Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định: “Ðối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý”.

Như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác đối với nhãn hiệu của mình.

Khái niệm chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu

Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn xác định sở hữu, quyền sở hữu là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ thì “chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình”. Từ đó, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu như sau: “chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu là việc chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng nhãn hiệu thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình trong phạm vi, thời hạn mà các bên đã thỏa thuận”.

2. Nội dung và hình thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Nội dung chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới, các đối tượng sở hữu trí tuệ đã trở thành những thứ “hàng hóa” có thể được trao đổi, mua bán nhằm mục đích thu lợi nhuận. Nằm trong chuỗi các hoạt động thương mại về quyền sở hữu công nghiệp có việc chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu. Đây là hoạt động mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng nhãn hiệu thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Hoạt động này chỉ là việc “cho phép” sử dụng nhãn hiệu mà người ta còn gọi là hoạt động li – xăng nhãn hiệu chứ không phải là “bán đứt” quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.

Người nhận chuyển giao chỉ có quyền khai thác công dụng của nhãn hiệu để thu lợi nhuận trong khi quyền sở hữu đối với nhãn hiệu vẫn thuộc về chủ sở hữu nhãn hiệu (Bên chuyển giao). Việc chuyển giao quyền sử dụng phải thể hiện được nội dung chủ yếu đó là bên chuyển giao cho phép bên nhận chuyển giao có thể gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ. Bên chuyển giao cũng có thể không chuyển giao toàn bộ nội dung kể trên mà chỉ chuyển giao cho bên nhận chuyển giao một phần của quyền sử dụng nhãn hiệu.

Hình thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Hiện nay, nhiều nước trên thế giới như Mĩ, Pháp và ngay ở tại Việt Nam đã ghi nhận hình thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu phổ biến là hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu (cấp li – xăng nhãn hiệu).

Việc cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu cho một ai đó điều đó có nghĩa là người đó chính là chủ sở hữu hợp pháp của nhãn hiệu đó. Do đó, chủ sở hữu nhãn hiệu có toàn quyền đối với nhãn hiệu của mình trong đó có cả quyền chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cho người khác (cấp li – xăng nhãn hiệu). Điều 21 Hiệp định TRIPS quy định cho phép các quốc gia thành viên có thể quy định điều kiện cấp li – xăng nhãn hiệu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc cấp li – xăng phải được thể hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản. Hợp đồng này có hiệu lực theo thoả thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp [2].

Khi chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, kể từ ngày hợp đồng li – xăng được đăng ký tại cục Sở hữu trí tuệ, bên nhận chuyển giao có quyền sử dụng nhãn hiệu trong phạm vi, thời hạn và với điều kiện ghi trong hợp đồng đã được đăng ký. Chủ sở hữu nhãn hiệu không được từ bỏ quyền sở hữu nhãn hiệu trong khi hợp đồng li – xăng đang còn hiệu lực mà không được sự đồng ý chấm dứt hợp đồng li – xăng trước thời hạn của bên nhận chuyển giao.

Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Giống như nhiều hợp đồng khác, việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cũng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên tức là có sự tồn tại của hợp đồng. Thực vậy, khoản 1  Điều 753 Bộ luật Dân sự quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, quyền đối với giống cây trồng có thể được chuyển giao toàn bộ hoặc một phần theo hợp đồng hoặc để thừa kế, kế thừa”.

Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định: “Việc chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp)”.

3. Những vấn đề cần đặt ra

Một là, cần nhanh chóng ban hành một văn bản quy phạm pháp luật thống nhất điều chỉnh vấn đề về phương thức xác định giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu nói riêng và phương thức định giá quyền sở hữu trí tuệ nói chung.

Điều này rất có ý nghĩa trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi tham gia góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu (thực chất là chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong một giới hạn nhất định) cũng như giúp doanh nghiệp đánh giá đúng thực chất giá trị của nhãn hiệu trong hoạt động li – xăng nhãn hiệu.

Hai là, Cục Sở hữu trí tuệ lẫn các cơ quan liên quan cần có những khuyến cáo cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam cảnh giác trước việc các Tập đoàn nước ngoài, các công ty đa quốc gia sau khi liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam, mua lại quyền sử dụng nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam để rồi đẩy các nhãn hiệu đó rơi vào thế suy yếu và kết cục là bị triệt tiêu, dẫn đến thương hiệu Việt bị khai tử ngay trên sân nhà.

Ba là, việc các bên tham gia chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu phải ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu là điều cần thiết và đã được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên vẫn còn có một số doanh nghiệp chưa coi trọng vấn đề này.

Bốn là, pháp luật về phá sản và sở hữu trí tệ cần cho phép bên nhận chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu được tiếp tục sử dụng nhãn hiệu sau khi bên doanh nghiệp chuyển giao bị phá sản nếu hợp đồng đó đang còn thời hạn thực hiện.

Năm là, về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong trường hợp nhãn hiệu đó trùng với tên thương mại: Nếu rơi vào trường hợp này, pháp luật sở hữu trí tuệ cần bổ sung quy định buộc bên chuyển giao phải đồng thời chuyển nhượng tên thương mại cùng với việc chuyển giao nhãn hiệu đó.

[1] Phương Anh (2012), Doanh nghiệp Mỹ chiếm trọn 10 thương hiệu đắt nhất, http://biz.cafef.vn.

[2] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb Chính trị quốc gia.

NGUYỄN THỊ MINH NHẬT

Trưởng phòng Tư vấn pháp luật trực tuyến
Công ty luật ThinkSmart - Đoàn Luật sư Hà Nội

Người lao động bị nghỉ việc không lương nộp hồ sơ hỗ trợ khó khăn do Covid-19 ở đâu?

Điều kiện để bệnh nhân Covid-19 được xuất viện theo quy định mới nhất

(LSVN) - Bộ Y tế vừa ban hành Quyết định 3416/QĐ-BYT về Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Covid-19, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn xuất viện.

 

Theo đó, tiêu chuẩn xuất viện căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm cụ thể như sau:

Thứ nhất, xuất viện vào ngày thứ 10 kể từ thời điểm xét nghiệm (+) với SARS- CoV-2 khi đạt các tiêu chuẩn sau:

- Không có triệu chứng lâm sàng trong vòng 10 ngày kể từ thời điểm xét nghiệm (+) với SARS-CoV-2.

- Tối thiểu lấy hai mẫu bệnh phẩm liên tiếp (cách nhau tối thiểu 24 giờ) có kết quả xét nghiệm bằng phương pháp real-time RT-PCR âm tính với SARS-CoV-2 hoặc nồng độ vi rút thấp (Ct ≥ 30); thời gian từ khi lấy mẫu bệnh phẩm cuối cùng tới khi ra viện không quá 24h.

Thứ hai, xuất viện vào ngày thứ 14 kể từ thời điểm xét nghiệm (+) với SARS-CoV-2 khi đạt các tiêu chuẩn sau:

- Có triệu chứng lâm sàng trong 10 ngày kể từ thời điểm xét nghiệm (+) với SARS-CoV-2.

- Tối thiểu lấy hai mẫu bệnh phẩm liên tiếp (cách nhau tối thiểu 24 giờ) có kết quả xét nghiệm bằng phương pháp real-time RT-PCR âm tính với SARS-CoV-2 hoặc nồng độ vi rút thấp (Ct ≥ 30); thời gian từ khi lấy mẫu bệnh phẩm cuối cùng tới khi ra viện không quá 24h.

Thứ ba, xuất viện sau ngày thứ 14 kể từ thời điểm xét nghiệm (+) với SARS- CoV-2 (ngày ra viện được xác định là sau 3 ngày kể từ ngày không còn triệu chứng lâm sàng + đảm bảo tiêu chuẩn về kết quả xét nghiệm).

- Có triệu chứng lâm sàng sau 10 ngày kể từ thời điểm xét nghiệm (+) với SARS-CoV-2.

- Tối thiểu lấy hai mẫu bệnh phẩm liên tiếp (cách nhau tối thiểu 24 giờ) có kết quả xét nghiệm bằng phương pháp real-time RT-PCR âm tính với SARS-CoV-2 hoặc nồng độ vi rút thấp (Ct ≥ 30); thời gian từ khi lấy mẫu bệnh phẩm cuối cùng tới khi ra viện không quá 24h.

Về theo dõi sau xuất viện người bệnh cần tiếp tục được cách ly phù hợp tại nhà dưới sự giám sát của Y tế cơ sở và CDC địa phương thêm 14 ngày và theo dõi thân nhiệt tại nhà 2 lần/ngày, nếu thân nhiệt cao hơn 38°C ở hai lần đo liên tiếp hoặc có bất kỳ dấu hiệu lâm sàng bất thường nào thì cần đến ngay cơ sở y tế để thăm khám và xử trí kịp thời.

Về bàn giao, vận chuyển người bệnh sau khi xuất viện thực hiện theo Công văn số 425/CV-BCĐ ngày 19/01/2021 của Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch Covid-19 và các văn bản thay thế khác (nếu có).

HỒNG HẠNH

Người lao động bị nghỉ việc không lương nộp hồ sơ hỗ trợ khó khăn do Covid-19 ở đâu?

Nội dung chi phí cưỡng chế thi hành án với pháp nhân thương mại

(LSVN) - Mức chi cho người chủ trì thi hành quyết định cưỡng chế thuộc cơ quan thi hành quyết định cưỡng chế là 150.000 đồng/người/ngày tham gia cưỡng chế, mức chi cho người được huy động tham gia thi hành quyết định cưỡng chế là 100.000 đồng/người/ngày tham gia cưỡng chế.

 

Bộ trưởng Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 55/2021/TT-BTC ngày 08/7/2021 hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, tạm ứng và hoàn trả chi phí cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại.

Thông tư này hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, tạm ứng và hoàn trả chi phí cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại (sau đây gọi là cưỡng chế) theo quy định tại Điều 44, Nghị định số 44/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại (sau đây gọi là Nghị định số 44/2020/NĐ-CP).

Về nguyên tắc quản lý chi phí cưỡng chế, pháp nhân thương mại bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí cho hoạt động cưỡng chế thực hiện theo quy định tại Điều 43 Nghị định số 44/2020/NĐ-CP.

Pháp nhân thương mại bị cưỡng chế có trách nhiệm nộp toàn bộ chi phí cưỡng chế cho cơ quan ra quyết định cưỡng chế theo quy định của Thông tư này.

Nội dung chi phí cưỡng chế được quy định rõ tại Điều 4 Thông tư, cụ thể việc xác định chi phí cưỡng chế thực hiện theo quy định tại Điều 43 Nghị định số 44/2020/NĐ-CP.

Về nội dung chi, gồm:

- Các chi phí quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện căn cứ vào hợp đồng, thanh lý hợp đồng, biên bản bàn giao tài sản kê biên (đối với chi phí thuê giữ hoặc bảo quản tài sản đã kê biên), hóa đơn, chứng từ chi tiêu thực tế, hợp pháp, hợp lệ theo quy định hiện hành và được người ra quyết định cưỡng chế phê duyệt.

- Riêng chi bồi dưỡng cho những người được huy động trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế như sau: Mức chi cho người chủ trì thi hành quyết định cưỡng chế thuộc cơ quan thi hành quyết định cưỡng chế là 150.000 đồng/người/ngày tham gia cưỡng chế, mức chi cho người được huy động tham gia thi hành quyết định cưỡng chế là 100.000 đồng/người/ngày tham gia cưỡng chế.

Việc cấp phát chi phí cưỡng chế thi hành án đối với pháp nhân thương mại thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20/01/2020 của Chính phủ quy định về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/8/2021.

PHƯƠNG HOA

Người lao động bị nghỉ việc không lương nộp hồ sơ hỗ trợ khó khăn do Covid-19 ở đâu?

 

Một số quy định mới về kiểm tra tổ chức, hoạt động Luật sư

 

(LSVN) – Đối với Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, nội dung kiểm tra tập trung vào các nội dung ghi trong Giấy đăng ký hành nghề Luật sư của Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và việc tuân thủ các quy định của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư, quy định của pháp luật có liên quan.

Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư số 05/2021/TT-BTP ngày 24/6/2021 hướng dẫn một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư cũng như Nghị định quy định chi tiết Luật này. Trong đó, Thông tư quy định rõ một số vấn đề về kiểm tra tổ chức, hoạt động Luật sư.

Theo đó, Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện kiểm tra về tổ chức và hoạt động Luật sư theo thẩm quyền.

Cục Bổ trợ tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện kiểm tra theo kế hoạch hằng năm về tổ chức và hoạt động Luật sư trong phạm vi toàn quốc và thực hiện kiểm tra đột xuất theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện kiểm tra về tổ chức và hoạt động Luật sư tại địa phương. Hằng năm, căn cứ tình hình thực tế, Sở Tư pháp lập kế hoạch kiểm tra tổ chức và hoạt động Luật sư tại địa phương, trong đó xác định rõ đối tượng kiểm tra, thời gian và nội dung kiểm tra; nhiệm vụ và quyền hạn của Trưởng Đoàn kiểm tra và thành viên Đoàn kiểm tra; quyền, nghĩa vụ của đối tượng kiểm tra; trình tự, thủ tục kiểm tra.

Sở Tư pháp thực hiện kiểm tra đột xuất theo yêu cầu của Bộ Tư pháp hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong tổ chức, hoạt động Luật sư.

Kế hoạch kiểm tra tổ chức và hoạt động Luật sư được thông báo bằng văn bản cho đối tượng kiểm tra chậm nhất là 07 ngày làm việc trước ngày tiến hành kiểm tra.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Sở Tư pháp gửi báo cáo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tư pháp về kết quả kiểm tra hoặc kết luận kiểm tra.

Nguyên tắc kiểm tra tổ chức, hoạt động Luật sư

Theo Điều 18 Thông tư số 05/2021/TT-BTP, nguyên tắc kiểm tra tổ chức, hoạt động Luật sư gồm:

- Công khai, khách quan, minh bạch và đúng kế hoạch đã được phê duyệt, trừ trường hợp kiểm tra đột xuất.

- Bảo đảm tính bảo mật trong hành nghề Luật sư theo quy định của Luật Luật sư và các quy định của pháp luật có liên quan.

- Tuân thủ quy định của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư, các quy định của pháp luật có liên quan.

Về nội dung kiểm tra, đối với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, việc kiểm tra tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây: tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Chứng chỉ hành nghề Luật sư; đề nghị thu hồi Chứng chỉ hành nghề Luật sư; kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư; việc đăng ký, giám sát tập sự hành nghề Luật sư; đăng ký gia nhập Đoàn Luật sư; cấp, đổi, thu hồi Thẻ Luật sư; thực hiện bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; thực hiện các quy định của pháp luật về tài chính, kế toán, thống kê; báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất; lập các mẫu sổ sách và lưu trữ giấy tờ tài liệu theo quy định của Luật Luật sư và các quy định của pháp luật có liên quan; thực hiện các quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư theo quy định của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư, quy định của pháp luật có liên quan và Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Đối với tổ chức hành nghề Luật sư Việt Nam và tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài tại Việt Nam, việc kiểm tra tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

- Thực hiện các quy định về đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề Luật sư Việt Nam; đề nghị cấp, cấp lại, thay đổi nội dung Giấy phép thành lập và Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài tại Việt Nam; đề nghị cấp, cấp lại, gia hạn Giấy phép hành nghề tại Việt Nam của Luật sư nước ngoài;

- Thực hiện các quy định của pháp luật về lao động trong trường hợp có thuê lao động;

- Thực hiện các quy định của pháp luật về thuế, tài chính, kế toán, thống kê;

- Ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý theo quy định của pháp luật;

- Tiếp nhận, theo dõi, hướng dẫn người tập sự hành nghề Luật sư;

- Báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất; lập các mẫu sổ sách và lưu trữ các giấy tờ tài liệu theo quy định của Luật Luật sư và các quy định của pháp luật có liên quan;

- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho Luật sư của tổ chức hành nghề Luật sư theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm;

- Tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ và tham gia trợ giúp pháp lý của Luật sư hành nghề tại tổ chức;

i) Thực hiện các quy định khác của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư.

Đối với Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, nội dung kiểm tra tập trung vào các nội dung ghi trong Giấy đăng ký hành nghề Luật sư của Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và việc tuân thủ các quy định của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư, quy định của pháp luật có liên quan.

Đối với Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc kiểm tra tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây: Thực hiện việc cấp, thay đổi, thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề Luật sư Việt Nam và tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài tại Việt Nam; Báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất, lập các mẫu sổ sách và lưu trữ các giấy tờ tài liệu theo quy định của Luật Luật sư và các quy định của pháp luật có liên quan; Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư; Thực hiện các quy định về kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề Luật sư; Thực hiện các quy định khác của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư.

Đoàn kiểm tra gồm có Trưởng đoàn và các thành viên. Trưởng Đoàn kiểm tra là đại diện lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước về Luật sư và hành nghề Luật sư. Các thành viên Đoàn kiểm tra bao gồm đại diện của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc kiểm tra về tổ chức và hoạt động Luật sư.

Đối tượng kiểm tra có các quyền yêu cầu thành viên Đoàn kiểm tra và các cơ quan, tổ chức có liên quan giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật; nhận biên bản kiểm tra và yêu cầu giải thích nội dung biên bản kiểm tra; bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra; từ chối việc kiểm tra khi không có quyết định kiểm tra; từ chối cung cấp thông tin, tài liệu không liên quan đến nội dung kiểm tra, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình kiểm tra và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Trình tự, thủ tục kiểm tra gồm:

- Công bố quyết định kiểm tra khi bắt đầu tiến hành kiểm tra về tổ chức, hoạt động Luật sư.

- Đối chiếu, kiểm tra, đánh giá nội dung báo cáo và các sổ sách, giấy tờ, tài liệu được xuất trình theo quy định của pháp luật.

- Lập biên bản kiểm tra về tổ chức, hoạt động Luật sư sau khi kết thúc kiểm tra.

- Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/8/2021.

THANH THANH

Tạm dừng xử phạt ô tô chưa lắp camera giám sát

Tiêu chí mới xác định doanh nghiệp công nghệ cao để được hưởng ưu đãi đầu tư

(LSVN) – Quy định mới này đã giới hạn các khoản được tính vào tổng chi cho hoạt động R&D, hạn chế tình trạng doanh nghiệp muốn được công nhận là doanh nghiệp công nghệ cao có thể tùy ý cộng các khoản vào chi phí cho hoạt động R&D.

Ngày nay, hoạt động công nghệ cao luôn là hoạt động được Chính phủ Việt Nam khuyến khích phát triển. Theo đó, doanh nghiệp công nghệ cao sẽ vừa được hưởng các ưu đãi đầu tư như ưu đãi về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, vừa được xem xét hỗ trợ kinh phí đào tạo, nghiên cứu và phát triển, sản xuất thử nghiệm,... Với sự quan tâm, ưu đãi “đặc biệt” trên, việc nhận diện “doanh nghiệp công nghệ cao” cũng tương đối quan trọng. Do đó, ngày 16/3/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 10/2021/QĐ-TTg quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao (“Quyết định 10”), thay thế các tiêu chí tại Quyết định số 19/2015/QĐ-TTg ngày 15/6/2015 (“Quyết định 19”). Với sự thay đổi này, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với các yêu cầu khắt khe hơn để được coi là “doanh nghiệp công nghệ cao”. 

Theo Quyết định 10, bên cạnh những tiêu chí không thay đổi khi xác định doanh nghiệp công nghệ cao như doanh nghiệp phải sản xuất sản phẩm công nghệ cao thuộc Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển theo quy định pháp luật; áp dụng các biện pháp thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng trong sản xuất,... và có doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao phải đạt ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hằng năm của doanh nghiệp, có 02 tiêu chí thay đổi nổi bật, quan trọng, cụ thể:  

Thứ nhất, tiêu chí tỷ lệ tổng chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (“R&D”) của doanh nghiệp trên giá trị của tổng doanh thu thuần trừ đi giá trị đầu vào đã có sự thay đổi lớn. 

Cụ thể, việc xác định tỷ lệ này tại Quyết định 19 được phân loại thành 02 trường hợp doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp có nguồn vốn trên 100 tỉ đồng và có tổng số lao động trên 300 người có tỷ lệ tương ứng là 1% và 0,5%. Trong khi đó, Quyết định 10 đã có sự phân định rõ ràng hơn thành 03 trường hợp cùng với việc thay đổi tăng tỷ lệ tổng chi cho hoạt động R&D.

Cụ thể, đối với doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 6.000 tỉ đồng và tổng số lao động từ 3.000 người trở lên, tỷ lệ này phải đạt ít nhất 0,5%. Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp trên, có tổng nguồn vốn từ 100 tỈ đồng và tổng số lao động từ 200 người trở lên, tỷ lệ phải đạt ít nhất 1%. Và với doanh nghiệp không thuộc các trường hợp nêu trên, tỷ lệ này phải đạt ít nhất 2%. 

Bên cạnh đó, việc xác định chi cho hoạt động R&D của doanh nghiệp đã được hướng dẫn cụ thể hơn, bao gồm các khoản chi sau: khấu hao đầu tư cơ sở hạ tầng, tài sản cố định, chi thường xuyên hàng năm cho hoạt động nghiên cứu và phát triển; chi hoạt động đào tạo, hỗ trợ đào tạo cho lao động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp, các tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở đào tạo tại Việt Nam; phí bản quyền, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp phục vụ hoạt động nghiên cứu và phát triển; phí đăng ký công nhận hoặc bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích tại Việt Nam. 

Quy định mới này đã giới hạn các khoản được tính vào tổng chi cho hoạt động R&D, hạn chế tình trạng doanh nghiệp muốn được công nhận là doanh nghiệp công nghệ cao có thể tùy ý cộng các khoản vào chi phí cho hoạt động R&D.

Luật sư Trần Gia Thế, Công ty Luật TNHH TGT.

Thứ hai, Quyết định 10 đã thay đổi tiêu chí liên quan đến chất lượng nhân sự. Cụ thể, trước đây quy định số lượng lao động trực tiếp thực hiện R&D có trình độ từ đại học trở lên  trên tổng số lao động của doanh nghiệp phải đạt ít nhất 5% đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và 2,5% đối với doanh nghiệp có nguồn vốn trên 100 tỉ đồng và tổng số lao động trên 300 người. 

Tuy nhiên, quy định mới chỉ yêu cầu lao động trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên và tỷ lệ số lao động này trên tổng số lao động của doanh nghiệp theo luật mới cũng được chia thành 03 trường hợp: đối với doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 6.000 tỉ đồng và tổng số lao động từ 3.000 người trở lên, tỷ lệ này phải đạt ít nhất 1%; đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp trên, có tổng nguồn vốn từ 100 tỉ đồng và tổng số lao động từ 200 người trở lên, tỷ lệ phải đạt ít nhất 2,5%; và đối với doanh nghiệp không thuộc cả hai trường hợp trên phải đạt tỷ lệ ít nhất 5%. 

Nhìn chung, việc thay đổi các tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao nêu trên giúp góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực công nghệ cao đầu tư hoặc mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp có mức vốn, năng lực đầu tư công nghệ cao hạn chế thì khó có thể đạt được tiêu chí về tỷ lệ chi R&D cũng như chất lượng nhân sự. Ngay cả những “người khổng lồ” trong ngành công nghệ cao như LG hay Samsung cũng đang phải nỗ lực trong việc tăng chi phí R&D để duy trì “danh hiệu” doanh nghiệp công nghệ cao bằng cách xây dựng các trung tâm R&D lớn tại Việt Nam,...

LUẬT SƯ TRẦN GIA THẾ

Công ty Luật TNHH TGT

Tạm dừng xử phạt ô tô chưa lắp camera giám sát

 

Admin