LSVNO - Tiến sĩ Phạm Văn Bạch ( 1910 - 1986) cố Chánh án TANDTC, xuất thân trong một “gia đình thế tộc, có ruộng đất, có quyền hành” nhưng khi sang Pháp, trung tâm của tư bản Phương Tây lúc ấy, ông đã chọn đề tài làm Luận án Tiến sĩ và bảo vệ xuất sắc là “Cách mạng ruộng đất và thực tiễn Xô Viết” vào năm 1936, khiến dư luận kinh ngạc… Sự chuyển biến về tư tưởng ấy có liên quan sâu xa đến người bạn gái Pháp, mối tình đầu của người sinh viên ưu tú này.
Bản luận án Tiến sĩ đặc biệt
Chánh án Phạm Văn Bạch sinh ngày 18/6/1910 tại làng Khánh Lộc, nay là xã Phước Hảo huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh trong một gia đình công chức. Cha ông làm công chức ở Sài Gòn, sau đó về làm hương chức của xã Vĩnh Tế – Châu Đốc. Tuy vậy, tuổi thơ ấu ông không sống gần cha và có một nỗi bất hạnh lớn, ông mồ côi mẹ khi mới 3 tuổi. Phạm Văn Bạch được ăn học chu đáo là nhờ sự cưu mang của ông bà ngoại, một gia đình địa chủ bậc trung và người cậu ruột.
Từnhỏ đến năm 15 tuổi, ông học tiểu học ở Trà Vinh, học trung học tại Cần Thơ vàMỹ Tho. Người ta kể rằng, hàng ngày “cậu Hai Bạch” đi xe song mã đến trường vàluôn có người theo hầu. Cũng như học trò của trường lúc ấy, cậu Hai Bạch mặc đồngphục học sinh kết nỉ màu nước biển, có viền dây kim tuyến, hình nhánh cây sồi,áo bành tô. Nút áo vàng, phía trước sáu nút, sau lưng có hai nút ngang qua cộtquần tây. Cậu học giỏi, thông minh, lạikhôi ngô, tuấn tú nến rất được nể trọng. Ai cũng nghĩ cậu sẽ có một tương lai đẹpđẽ, êm ấm như gia thế và khả năng của cậu trong xã hội bấy giờ. Nhưng không ngờ,cậu Hai Bạch trong nhóm 16 học sinh bị đuổi học vì tham gia biểu tình, bãi khóađòi thả bốn học sinh bị bắt giam vì nghi “làm chính trị”, rồi bãi khóa để tangcụ Phan Chu Trinh.
Tronghồi ký “Mùa thu nhớ mãi” ông kể lại, rất may là đang trong lúc bị nghỉ học nhưvậy thì cậu Tư của Phạm Văn Bạch, một kỹ sư hóa tốt nghiệp tại Pháp, có vợ đầm,về thăm quê. “Khi mợ Tư có việc về Pháp, ông bà ngoại tôi đề nghị tôi đi theo gọilà “đi du lịch”, nhưng mọi việc được sắp xếp cho tôi ở lại học luôn bên Pháp. Mợtôi là người Lyon, nên tôi theo mợ về đó đi học, với sự đỡ đầu của cha vợ cậuTư tôi là một người thiên tả”. Thiên tả có nghĩa là nghiêng về “cánh tả”. Khởiđầu từ Cách mạng Pháp 1789, “cánh tả”, bao gồm giới tư sản, trí thức, lao động,luôn đại diện tinh thần cách mạng đòi công lý và tự do; đối ngược với “cánh hữu”,ngồi bên của giới tu sĩ, quý tộc bảo thủ muốn duy trì trật tự chính trị xã hộihiện hành. “Cánh tả” trong truyền thống chính trị phương Tây luôn cổ xúy quyềntự do cá nhân, công lý xã hội, dân chủ, và chủ trương một sự thay đổi nhanhchóng trật tự chính trị xã hội đương thời – thay vì lối thay đổi tiệm tiến củacánh hữu – để đạt đến một trật tự khác. Tinh thần của “cánh tả” là tinh thầncách mạng của những giá trị mới. Một số trí thức “tả” phương Tây ủng hộ chủnghĩa cộng sản. Có lẽ thái độ chính trị của ông chủ nhà đã gieo những hạt giốngcách mạng vào cậu học trò thông minh vừa từ Đông Dương sang Kinh đô Ánh sáng.
Mộtchuyện không may là ông ngoại và cậu Tư là những người bảo trợ cho Phạm Văn Bạchăn học đều bị khánh kiệt gia tài, vì thế cậu phải từ bỏ chỗ ăn ở đàng hoàng đểvề trú ở những nơi rẻ tiền. Nhưng càng khó khăn, cậu càng quyết tâm học thật giỏiđể bọn Tây không thể coi thường. Tuy vậy, khi đã có bằng cử nhân Luật và Triếthọc, cậu vẫn không xin nổi việc làm, ngay tại một nước văn minh như Pháp bấy giờ.
Năm 1936, ông tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa hạng ưu. Nhưng luận án về đề tài “Cách mạng ruộng đất và thực tiễn Xô viết” của ông gây bất ngờ cho các giáo sư và bạn học trong trường, cũng như gây xôn xao dư luận Pháp lúc đó.
“Đọcxong luận án, viên Chánh chủ khảo là giáo sư Francois Perloux, một người theochủ nghĩa phát xít đã mời tôi vào quán cà phê, khen luận văn viết lưu loát nhưngười Pháp, hoàn chỉnh về mặt văn phạm, cấu trúc lý luận rất khoa học theo đườnglối Macxit chính cống, chứng tỏ có nghiên cứu đàng hoàng. Ông chúc mừng tôi vàtỏ ra khâm phục “luận án có tính chất khoa học và nghiêm chỉnh”. Nhưng đồng thời,ông nói riêng với tôi: “Trước hội đồng chấm thi tôi sẽ cho anh qua, nhưng saunày gặp chỗ khác tôi sẽ không cho anh qua đâu, vì tôi hoàn toàn chống đối tư tưởngtrình bày trong luận án”. Sau này, ông Phạm Văn Bạch nhớ lại.
Tronglần vào phía Nam công tác, tôi đã đến thăm gia đình cố Chánh án Phạm Văn Bạch.Trong một căn nhà trên đường Nguyễn Văn Thủ, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, tôi đượctrò chuyện với anh Phạm Văn Tiến, con trai út của ông. Trong phòng, ngoài bànthờ, còn có bức tượng đồng bán thân của Tiến sĩ Phạm Văn Bạch với nét mặt tươivui. Tôi đã được cầm trên tay cuốn Luận án Tiến sĩ nổi tiếng của ông, dày chừng300 trang, được đóng bìa cứng bọc da, mạ chữ vàng. Hơn 80 năm, giấy đã ố vàngnhưng cuốn Luận án có tựa “Le marxisme agraire ét lexperience Russe” còn nguyênvẹn. Trên trang bìa lót, chúng tôi đọc thấy những dòng chữ viết tay, bằng mựcxanh Cửu Long, từ 50 năm trước của Tiến sĩ Phạm Văn Bạch. Ông viết: “Xin chú ýquyển sách này viết trong lúc tôi mới là một “Sympathisont” (cảm tình viên –NV), muốn góp phần cá nhân vào cuộc đấu tranh cách mạng thế giới, để làm “Thésede doctorat en doit” (luận án Tiến sĩ Luật học) tại Đại học đường Lyon ở Phápnăm 1936. Trong hoàn cảnh lúc ấy chưa có được sự chỉ dẫn và giúp đỡ của Đảng tahoặc Đảng Pháp, mà chỉ nghiên cứu đơn độc. Nay nhận lại cuốn sách này và xem lạisau 22 năm, thì thấy có những điểm, những khía cạnh chưa đúng đắn hoặc là cầnphải nghiên cứu thêm. Mặc dù vậy các báo chí tiến bộ Pháp hồi bấy giờ có bìnhluận tốt và cho rằng luận án này làm theo đường lối “orthodoxie marxite” (Mácxít chính thống) 30/8/1958″.
Mối tình đầu
Bảnluận án khiến các nhà thực dân đau đầu. Mật thám theo dõi Phạm Văn Bạch ráo riết,và họ dễ dàng tìm ra những người bạn thân của ông, đều là những thanh niên cáchmạng như Huỳnh Khương Ninh, Nguyễn Trọng Đắc, đều là đảng viên Đảng Cộng sảnPháp. Sau này, Huỳnh Khương Ninh bị phát xít Đức xử bắn tại Paris… Đặc biệt,người vẫn cùng ông chia sẻ quan điểm “chệch hướng” này, là một cô gái Pháp tênlà Lucelte Chargnioux – Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản tỉnh Rhôme. Hai ngườiyêu nhau.
Trong sơ yếu lý lịch đảng viên năm 1976, ở mục bạn bè, cố Chánh án Phạm Văn Bạch cũng ghi rõ: “Khi học ở Pháp quan hệ thân thiết và hoạt động trong Đoàn Thanh niên cộng sản tỉnh Rhôme, có những bạn thân như Lucelte Chargnioux, nữ công nhân; Francoi Grheze, nhà văn và nhà sử học…”.
Nhữngcuộc hẹn hò ở thư viện bảo tàng, những cuộc dạo chơi ở công viên Lucxămbua vànhững buổi đi chơi ngoại ô, những buổi sinh hoạt Đoàn Thanh niên… đã giúp cho họhiểu về nhau hơn. Sự thông minh, tinh tế và hoài bão của chàng du học sinh AnNam làm cho Lucelte có cái nhìn khác đi về những dân tộc bị áp bức; sự nhiệtthành cùng những kiến thức của người nữ Bí thư Tỉnh Đoàn đã giúp cho Phạm Văn Bạchnhìn rõ hơn hiện thực xã hội Pháp luôn nêu cao tinh thần tự do – bình đẳng –bác ái.
Từmột học sinh yêu nước, điều kiện sách vở, tài liệu ở Pháp và sự tác động nhất địnhcủa bạn bè và bạn gái, Phạm Văn Bạch đã tìm đến với Chủ nghĩa Mác – Lê nin vàquyết định làm luận án về đề tài này…Trong hồi ký của mình, Tiến sĩ Phạm Văn Bạch viết: “Qua Lucelte tôi tìm đượctrong Hiến pháp Xô Viết và thực tiễn Xô Viết giải pháp đúng đắn cho cả hai vấnđề căn bản: Dân tộc và giai cấp!”
Dochỉ thị của mật thám ở chính quốc, về nước tân Tiến sĩ hạng ưu Phạm Văn Bạch vẫnbị theo dõi chặt chẽ. Vì thế, ông khó tìm được việc làm ưng ý, phải đi dạy họcrồi làm luật sư, có thời gian phải sang Phnôm Pênh hành nghề.
Trongsơ yếu lý lịch ông viết: “Về nước năm 1936, tuy có nhiều bằng cấp lớn nhưngkhông bị tiền tài và quyền thế phi nghĩa cám dỗ, không làm việc trong chính quyềnthực dân mà chỉ dạy học và làm luật sư để sinh sống và hoạt động, luôn luôn cómối quan hệ mật thiết với một số đảng viên như các đồng chí Nguyễn Thanh Sơn,Nguyễn Văn Cải… lúc ấy ở Cần Thơ trong thời kỳ bí mật, để tham gia phong tràocách mạng, giúp đỡ những đảng viên bị mất thám bắt, truy tố…”
Mấyai biết rằng, khi Tiến sĩ Phạm Văn Bạch về nước, Lucelte Chargnioux đã tác độngnhững người cộng sản Pháp giới thiệu ông với Xứ ủy Nam kỳ. Từ đó, ông dấn thânvào con đường cách mạng, năm 1946, ông gia nhập Đảng lao động Việt Nam, ngườigiới thiệu là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và một ủy viên Xứ ủy Nam bộ.
Vớiuy tín của mình, từ tháng 8/1945 đến ngày tập kết ra Bắc, Tiến sĩ Phạm Văn Bạchđã được cử làm Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ rồiChủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, thay ông Trần Văn Giàu, kiêm Chủtịch Ủy ban Kháng chiến Miền Nam, Bí thư Đảng đoàn…
Tháng9/1954, sau khi tập kết ra Bắc, ông được giao các trọng trách như Phó ban MiềnNam của Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Phủ Thủ tướng. Tháng9/1959, khi thành lập Tòa án nhân dân tối cao, ông được bầu giữ cương vị Chánhán. Ông còn là Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ tại Việt Nam kiêm Việntrưởng Viện Luật học; Phó chủ tịch Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế. Ông là đại biểuQuốc hội liên tục nhiều khóa, tham gia Ban soạn thảo Hiến pháp 1959 và Hiếnpháp 1980.
Theotác giả Trần Dũng, tác giả cuốn sách viết về danh nhân Trà Vinh, người đã gặp gỡcố Chánh án Phạm Văn Bạch nhiều lần, thìLucelte vẫn luôn quan tâm theo dõi từng bước đi trong cuộc đời và sự nghiệp củaTiến sĩ Phạm Văn Bạch. Ông trở thành nguồn động viên để bà vững bước trên conđường đấu tranh, trở thành một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu của Đảng Cộngsản Pháp nửa sau thế kỷ XX. Lucelte phụ trách công tác đối ngoại với các nước,các dân tộc, các đảng phái cánh tả trong phong trào các nước không liên kết.
Tiến sĩ Phạm Văn Bạch và người nữ chiến sĩ Cộng sản Pháp Lucelte Chargnioux dù không thể sống bên nhau nhưng họ vẫn giữ được mối quan hệ khá thân thiết về lý tưởng đấu tranh chung cũng như về mối tình đầu không bao giờ mờ phai.
Bảo Thư (Tạp chí Tòa án)