Còn vướng mắc khi xác định người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi

04/07/2019 20:49 | 4 năm trước

LSVNO - Người đại diện nói chung và người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (người bị buộc tội dưới 18 tuổi) nói riêng là người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều...

LSVNO - Người đại diện nói chung và người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (người bị buộc tội dưới 18 tuổi) nói riêng là người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015 vì trước đây BLTTHS năm 2003 không có quy định người đại diện là người tham gia tố tụng. Trong phạm vi bài viết, tác giả trình bày quy định của pháp luật về ai là người đại diện của người bị buộc tội, quyền và nghĩa vụ của người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng và một số vướng mắc trong thực tiễn hiện nay.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ thể về người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi gồm những ai. Tuy nhiên, tại Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi có quy định như sau: Người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các Điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự và được xác định theo thứ tự sau đây: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; người giám hộ; người do tòa án chỉ định.

 Một phiên tòa xét xử bị cáo chưa thành niên. Ảnh: Công lý.

Về người giám hộ của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi

Người giám hộ của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bao gồm người giám hộ đương nhiên hoặc người được ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử hoặc tòa án chỉ định theo quy định tại các Điều 46, 47, 48, 52 và 54 Mục 4 Chương III Bộ luật Dân sự.

Nếu như BLTTHS năm 2015 dùng cụm từ “người dưới 18 tuổi” để chỉ người chưa thành niên thì Bộ luật Dân sự năm 2015 không sử dụng cụm từ “người dưới 18 tuổi” mà sử dụng cụm từ “người chưa thành niên”. Người chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 là người chưa đủ 18 tuổi. Do đó, người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được hiểu là người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên.

Theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ thì có người giám hộ đương nhiên. Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo thứ tự sau đây:

- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ;

- Trường hợp không có người giám hộ theo quy định nói trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;

- Trường hợp không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.

Việc cử người giám hộ của người chưa thành niên được thực hiện theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ mà không có người giám hộ đương nhiên thì ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người chưa thành niên có trách nhiệm cử người giám hộ cho họ.

Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ. Trường hợp cử người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người chưa thành niên.

Về người giám hộ của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được tòa án chỉ định

Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Dân sự năm 2015, tòa án chỉ định người giám hộ của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong các trường hợp sau:

a) Khi có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật Dân sự về người giám hộ.

Khi có sự tranh chấp về người giám hộ giữa những người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015 và người mất năng lực hành vi dân sự thì tòa án sẽ chỉ định người giám hộ. Đối với người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi trở lên thì khi tòa án chỉ định người giám hộ cho họ phải xem xét nguyện vọng của người này.

Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLDS năm 2015 được xác định theo thứ tự sau đây:

- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.

- Trường hợp không có người giám hộ theo quy định nói trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.

- Trường hợp không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.

Đối với người mất năng lực hành vi dân sự không thuộc trường hợp trước khi bị mất năng lực hành vi dân sự người này đã lựa chọn người giám hộ cho mình thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:

- Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.

- Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

- Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.

b) Khi có tranh chấp về việc cử người giám hộ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Dân sự năm 2015, trường hợp người chưa thành niên quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên thì ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.

Về người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi do tòa án chỉ định

Theo khoản 3 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong trường hợp không xác định được người đại diện là cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ cho người chưa thành niên (bao gồm người giám hộ đương nhiên, người giám hộ do ủy ban nhân dân cấp xã cử hoặc do tòa án chỉ định) thì tòa án chỉ định người đại diện cho người chưa thành niên.

Như vậy, khi có sự tranh chấp về việc cử người giám hộ giữa ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giám hộ cư trú thì tòa án chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên.

Một số vướng mắc khi xác định người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi

Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật về người đại diện của người bị buộc tội và thực tiễn xét xử các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi của các tòa án trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy việc xác định người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi có một số vướng mắc cần được hướng dẫn như sau:

Trường hợp người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đăng ký thường trú một nơi và đang sinh sống một nơi thì ủy ban nhân dân cấp xã nơi nào có trách nhiệm cử người giám hộ?

Theo quy định tại Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 thì nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Tuy nhiên, trong thực tiễn có nhiều trường hợp người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đăng ký thường trú một nơi nhưng sinh sống một nơi (có đăng ký hoặc không có đăng ký tạm trú). Như vậy, trong trường hợp này thì ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị buộc tội dưới 18 tuổi đăng ký thường trú hay đăng ký tạm trú có trách nhiệm cử người giám hộ cho họ. Trường hợp có tranh chấp việc cử người giám hộ thì tòa án nơi người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đăng ký thường trú hay tạm trú có thẩm quyền chỉ định người giám hộ?

Trình tự, thủ tục tòa án chỉ định người giám hộ hoặc chỉ định người đại diện cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi được thực hiện như thế nào?

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong trường hợp có tranh chấp về người giám hộ hoặc tranh chấp về cử người giám hộ thì tòa án chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên. Hoặc trong trường hợp không xác định được người đại diện là cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ cho người chưa thành niên thì tòa án chỉ định người đại diện cho người chưa thành niên. Như vậy, trình tự, thủ tục để tòa án chỉ định người giám hộ hoặc chỉ định người đại diện cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi được thực hiện như thế nào? Tòa án sẽ chỉ định ai là người giám hộ hoặc ai là người đại diện cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi. Hoặc là khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án trong việc chỉ định người giám hộ, chỉ định người đại diện thì trình tự, thủ tục giải quyết như thế nào?

Trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, nếu thuộc trường hợp tòa án phải chỉ định người giám hộ hoặc chỉ định người đại diện cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi nhưng thời hạn điều, truy tố, xét xử đã hết thì giải quyết như thế nào?

Trường hợp trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, nếu thuộc trường hợp tòa án phải chỉ định người giám hộ hoặc chỉ định người đại diện cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi nhưng thời hạn điều, truy tố, xét xử đã hết thì có quan điểm cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng trong mỗi giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sẽ tạm đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ vụ án để chờ tòa án có thẩm quyền chỉ định người giám hộ hoặc chỉ định người đại diện cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đối chiếu quy định tại khoản 1 Điều 229, khoản 1 Điều 247 và khoản 1 Điều 281 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì việc tạm đình chỉ điều tra hay tạm đình chỉ vụ án trong trường hợp này là không có căn cứ.

Người nhận nuôi người bị buộc tội dưới 18 tuổi nhưng không đăng ký nhận con nuôi theo quy định pháp luật thì có được làm người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới tuổi không?

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định trước tiên là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi. Thực tiễn có trường hợp người bị buộc tội dưới 18 tuổi không còn cha mẹ đẻ nhưng có cha mẹ nuôi từ nhỏ. Nhưng việc nuôi con nuôi không thực hiện việc đăng ký nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật thì có được làm người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi không và họ có được làm người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi để tham gia tố tụng không? Vấn đề này hiện cũng còn quan điểm khác nhau do nhận thức khác nhau. Có quan điểm cho rằng, trường hợp này cha mẹ nuôi thực tế có quan hệ nuôi dưỡng người bị buộc tội dưới 18 tuổi từ nhỏ nên được xác định là người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi và họ được làm người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi để tham gia tố tụng. Nhưng cũng có quan điểm ngược lại. Điều này gây khó khăn trong việc xác định người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong một số vụ án hình sự hiện nay.

Dương Tấn Thanh