Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục

27/07/2020 17:01 | 3 năm trước

(LSO) - Trong khoảng vài thập kỷ gần đây, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước là vấn đề nổi trội được sự quan tâm đặc biệt từ các tổ chức quốc tế, các chính phủ và người dân của các quốc gia trên thế giới. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước ở Việt Nam, với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đang được đặt ra có tính bức thiết trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có giáo dục - một lĩnh vực đã được Hiến định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”.

Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học nhấn mạnh công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình gắn với quyền tự chủ của nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là cơ sở giáo dục đại học, tuy nhiên chưa quan tâm đúng mức đến công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục.

Phát triển giáo dục có vai trò cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa quyết định cho phát triển xã hội, phát triển đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực. Tôn Trung Sơn đã từng cho rằng: Mất nước có thể cứu nước, có thể lấy lại được, nhưng nếu mất văn hóa, giáo dục là mất hết. Giáo dục có vai trò rất quan trọng đối với mỗi con người và đối với tiến bộ xã hội, hưng thịnh quốc gia, làm nên sự  tiến hóa của loài người và văn minh nhân loại.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Thông qua việc trang bị những kiến thức, kỹ năng và thái độ sống cho con người, giáo dục giúp con người sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, có khả năng giải quyết vấn đề và thích ứng tốt nhất với hoàn cảnh tự nhiên và xã hội. Lịch sử minh chứng rằng những quốc gia có nền giáo dục cao thường là những quốc gia phát triển văn minh hơn, bình quân thu nhập đầu người cao hơn, an sinh xã hội được bảo đảm.

Những quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển có nền giáo dục phát triển thấp thì xã hội có nhiều người nghèo khổ hoặc sống dưới mức nghèo khổ; những vấn đề công bằng, công lý và bình đẳng xã hội gặp nhiều khó khăn, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình có nhiều hạn chế.

Chính vì vai trò và tầm quan trọng của phát triển giáo dục nên quản trị nhà nước trong lĩnh vực này càng đòi hỏi cao về tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Giáo dục (education) là nuôi dạy, nuôi dưỡng, đào tạo, huấn luyện… là trách nhiệm xã hội của cộng đồng, của nhà nước, đồng thời là quyền con người, quyền của mỗi người. Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966 ghi nhận giáo dục là quyền con người, quyền của tất cả mọi người.

Trong thực tế, ở hầu khắp các quốc gia, trẻ em trong độ tuổi nhất định thường bắt buộc phải tới trường và hình thành các hệ thống giáo dục quốc dân tập trung. Tuy nhiên đến nay các hình thức giáo dục có nhiều thay đổi so với trước, đặc biệt ở những nước phát triển và công nghệ hiện đại, người học có thể chọn các hình thức học, học từ xa, học trực tuyến, học suốt đời, học tập trung hoặc bán tập trung, thậm chí học ở nhà… đều được chấp nhận giá trị bằng cấp đạt được như nhau nếu như tích lũy đầy đủ các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết. Thực tế đó càng đòi hỏi cao trong thực hiện nghĩa vụ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình về quản trị nhà nước trong lĩnh vực này.

Công khai và minh bạch là việc cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn bản, về tổ chức và hoạt động, hoặc về các nội dung có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ một cách rõ ràng, ngay tình, trung thực. Theo sách Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2007 thì công khai là “không giấu diếm, bí mật mà cho mọi người cùng biết”; minh bạch là “sáng rõ, rành mạch”.

Thuật ngữ “công khai” thường đi cùng và gắn liền thuật ngữ “minh bạch”. Với ý nghĩa và bản chất như vậy nên “công khai, minh bạch” luôn được sử dụng như một biện pháp hữu hiệu để phòng, chống các hành vi tiêu cực trong các hoạt động có tổ chức, đặc biệt là hoạt động của các cơ quan được trao quyền lực công.

Trong đạo đức xã hội nói chung và trong quản trị công, trách nhiệm giải trình (accountability, có nguồn gốc Latin là accomptare: giải thích) là trách nhiệm giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản trị nhà nước và thực hiện các dịch vụ công. Là một thuộc tính trong ngành quản trị, accountability là trung tâm của các cuộc thảo luận liên quan đến các vấn đề trong quản trị nhà nước, trong khu vực công và trách nhiệm cá nhân.

Trong vai trò lãnh đạo và quản lý, trách nhiệm giải trình là sự ghi nhận và giả định về trách nhiệm đối với hành động, sản phẩm, quyết định và chính sách, bao gồm cả việc quản lý, quản trị, điều hành, thực thi công vụ, trong phạm vi vai trò hay vị trí việc làm, không chỉ bao gồm nghĩa vụ báo cáo mà còn phải thuyết minh, giải thích và chịu trách nhiệm về kết quả công việc, về hậu quả thiệt hại.

Từ trước đến nay ở Việt Nam, trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước thường được hiểu như là một mối quan hệ báo cáo giữa các cá nhân có trách nhiệm công vụ với cơ quan hoặc người có trách nhiệm khác; là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao khi có yêu cầu, người yêu cầu giải trình là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu giải trình...

Chẳng hạn Nghị định số 90/2013/NĐ-CP về trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao định nghĩa trách nhiệm giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó; người giải trình là người đứng đầu cơ quan nhà nước hoặc người được người đứng đầu cơ quan nhà nước ủy quyền thực hiện việc giải trình; người có quyền yêu cầu giải trình là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu giải trình.

Tuy nhiên, quan hệ quản trị công hiện đại đòi hỏi phải hiểu đúng về trách nhiệm giải trình. Accountability trước hết là trách nhiệm xã hội, gắn liền với thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể quan hệ pháp luật, đồng thời xác định trách nhiệm của nhà nước và các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công phải giải trình trước nhân dân và xã hội về các hoạt động của mình liên quan tới xã hội và cộng đồng. Trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước luôn gắn liền với yêu cầu công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm để có được một nhà nước liêm chính, kiến tạo phát triển, phục vụ nhân dân. Như vậy, cần có sự phân biệt giữa “trách nhiệm giải trình” (accountability) với nghĩa vụ “báo cáo” (report) giữa cấp dưới và cấp trên trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước.

Hiện nay, một cuộc cách mạng về giáo dục với chủ trương “đổi mới căn bản, toàn diện” nền giáo dục đang diễn ra theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), bảo đảm cho giáo dục Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Theo lộ trình, bắt đầu từ năm học 2020-2021, ngành giáo dục Việt Nam chính thức triển khai áp dụng nhiều cải cách mới, bắt đầu từ áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã nêu ra nhiều tồn tại yếu kém liên quan tới quản trị nhà nước về giáo dục: “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc.

Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn…

Với tư cách là cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về giáo dục, đương nhiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải chịu trách nhiệm về những hạn chế yếu kém trong quản trị nhà nước do ngành mình quản lý.

Tuy nhiên, nếu quy tất cả trách nhiệm cho ngành giáo dục thì hoàn toàn không khách quan và không công bằng. Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp đều xác định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục và phân công cho nhiều bộ, ngành cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý lĩnh vực giáo dục, vì vậy các bộ, ngành “chủ quản” cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý trực tiếp trong quản trị nhà nước về giáo dục. Đồng thời trách nhiệm quản trị giáo dục ở nước ta cũng phải thuộc về cả hệ thống chính trị. Nếu không thể hiện rõ tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong cơ chế quản trị nhà nước như hiện nay thì không thể đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục như mong muốn.

Quản trị nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục… để đạt tới cái gì? Có thể có câu trả lời đơn giản là: chất lượng giáo dục. Nhưng câu trả lời đó hoàn toàn chưa thỏa đáng vì quản trị nhà nước không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới chất lượng giáo dục. Muốn có chất lượng giáo dục thì phải tôn trọng, “cởi trói” và trả lại cho giáo dục những đặc trưng, thuộc tính vốn có của nó, những quy luật vận động để phát triển, nhà nước không thể áp đặt hoặc can thiệp, làm thay.

Kinh nghiệm từ nhiều nước có mô hình giáo dục tiên tiến ở châu Âu, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Israel… cho thấy lao động trong lĩnh vực giáo dục, trong nhà trường, của thầy và của trò, là lao động trí tuệ, lao động sáng tạo, đòi hỏi tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tự do học thuật rất cao (academy freedom).

Do cơ chế quản trị giáo dục chưa phù hợp, chưa đi thẳng vào đặc điểm và yêu cầu thực chất của phát triển giáo dục là “academy freedom” nên qua nhiều lần cải cách giáo dục và áp dụng các mô hình giáo dục tiên tiến, thì càng cải cách và áp dụng nhiều mô hình, càng làm cho nền giáo dục rối rắm, phức tạp hơn, dường không có đường ra. Trong khi đó Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và nhiều quốc gia khác lại nhanh chóng áp dụng thành công các mô hình giáo dục tiên tiến, vì trong cơ chế quản trị nhà nước nói chung và quản trị nhà nước về giáo dục nói riêng, các quốc gia đó chỉ tập trung quản lý vĩ mô, đường hướng chiến lược, hệ thống pháp luật, thực hiện vai trò kiến tạo cho phát triển giáo dục. Họ tạo cơ chế mở và quyền tự chủ, độc lập, thông thoáng cho các nhà trường, phát huy được tối đa tính chủ động, tự do học tập và nghiên cứu, kích thích năng lực sáng tạo của các cơ sở giáo dục, không chỉ về tự do học thuật mà cả trong xây dựng chiến lược phát triển nhà trường, trong xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp dạy, học và nghiên cứu sáng tạo của thầy và trò. 

Với cơ chế quản trị nhà nước thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình như thế, nền giáo dục không bị xơ cứng, thoái hóa, lạc hậu với thời gian mà ngược lại luôn sống động, luôn tự làm mới và sinh động trong quá trình vận hành, tạo ra các sản phẩm là những con người có tư tưởng khai phóng, có tư duy độc lập, có năng lực phản biện và bảo vệ chân lý, luôn chủ động, trách nhiệm và sáng tạo trong công việc, trong cuộc sống hàng ngày của bản thân và trong đời sống xã hội. Sản phẩm của giáo dục là những con người không chỉ giỏi về chuyên môn, thuần thục về kỹ năng mà còn chuẩn mực về tính kỷ luật và đạo đức, nhân cách và thái độ. Tất cả các quốc gia thịnh vượng, cất cánh bay cao về kinh tế - xã hội đều có nền giáo dục thành công, đều dựa trên quan điểm giáo dục không những là truyền thụ kiến thức, mà còn là trang bị cho người học phương pháp, phát huy sáng tạo, khả năng độc lập tư duy, năng lực phản biện và tinh thần phản biện khoa học. 

Quan điểm “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển” trong thực tiễn chưa được quán triệt đúng mức và triển khai hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Quản trị nhà nước về giáo dục hiện tại còn nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy tính tích cực và trách nhiệm của các đơn vị cơ sở. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Sự không thống nhất, chồng chéo trong quản lý giữa các bộ, ngành đã làm giảm hiệu quả của công tác này. Vẫn còn lãng phí trong một số hạng mục đầu tư của Nhà nước cho giáo dục và đào tạo, chẳng hạn không ít đề án cải cách giáo dục không mang lại hiệu quả đích thực. Cơ sở vật chất thiếu thốn, chất lượng đội ngũ, chất lượng giáo trình còn nhiều hạn chế là những vấn đề không phải một sớm một chiều có thể khắc phục được. Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối mạnh việc dạy, học và thi cử.

Là một hoạt động dịch vụ công cung cấp dịch vụ giáo dục, các chủ thể sử dụng dịch vụ giáo dục phải được cung cấp đầy đủ thông tin, họ phải nhận được những bản cam kết mang tính thực tiễn rằng chất lượng dịch vụ bảo đảm đúng với “nhãn mác”. Nhằm giảm thiểu rủi ro, tối ưu hóa lợi ích của cả xã hội, cần phải thực hiện nghiêm túc kiểm định chất lượng, tạo điều kiện vận hành hiệu quả hệ thống các cơ sở giáo dục. Chính sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước và quản trị các dịch vụ công không những bảo đảm chất lượng cho chủ thể sử dụng dịch vụ giáo dục, mà còn tạo ra một cơ chế cạnh tranh công bằng, buộc các cơ sở giáo dục không thể không tự mình hoàn thiện nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn các nhu cầu xã hội. 

Ủy ban quốc tế về giáo dục của UNESCO đã nêu lên những vấn đề mà giáo dục toàn cầu phải đương đầu để giải quyết là: (1) mối quan hệ toàn cầu và cục bộ, con người dần trở thành “công dân toàn cầu”, mang tính quốc tế, nhưng vẫn là thành viên tích cực của cộng đồng, của quốc gia mình; (2) mối quan hệ giữa toàn cầu và văn hóa của nhân loại, văn hóa của từng dân tộc, từng khu vực, đồng thời phải tạo điều kiện phát triển cá tính của từng con người; (3) mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, thích ứng với những yêu cầu của thời đại mới nhưng không làm mất đi truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiến lên cập nhật những tiến bộ mới nhưng không quay lưng lại với quá khứ; (4) mối quan hệ giữa cách nhìn dài hạn và cách nhìn ngắn hạn, thực tiễn giáo dục đòi hỏi cần có những giải pháp mang tính bức thiết, trong khi đó, nhiều vấn đề gặp phải lại cần có những sách lược cải cách lâu dài; (5) mối quan hệ giữa cạnh tranh cần thiết và bình đẳng; (6) mối quan hệ giữa gia tăng vô hạn của tri thức và khả năng tiếp thu của con người; (7) mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, trí tuệ đồng thời phải quan tâm giáo dục lý tưởng và các giá trị đạo đức.

Ủy ban quốc tế về giáo dục của UNESCO cũng đã đưa ra sáu nguyên tắc cơ bản cho công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục:

- Giáo dục là quyền cơ bản của con người và cũng là giá trị chung nhất của nhân loại.

- Giáo dục chính quy và không chính quy đều phải phục vụ xã hội, giáo dục là công cụ để sáng tạo, tăng tiến và phổ biến tri thức khoa học, đưa tri thức khoa học đến với mọi người.

- Các chính sách giáo dục phải chú ý phối hợp phài hòa cả ba mục đích là: công bằng, thích hợp và chất lượng.

- Muốn tiến hành cải cách giáo dục cần phải xem xét kỹ lưỡng và hiểu biết sâu sắc về thực tiễn, chính sách và các điều kiện cũng như những yêu cầu của từng vùng.

- Cần có cách tiếp cận phát triển giáo dục thích hợp với từng vùng, tuy nhiên cần phải chú ý đến các giá trị chung, các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế như: quyền con người, sự khoan dung, hiểu biết lẫn nhau, dân chủ, trách nhiệm, bản sắc dân tộc, môi trường, chia sẻ tri thức, giảm đói nghèo, dân số, sức khỏe…

- Giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả mọi người.

Quá trình hội nhập quốc tế và cách mạng công nghệ đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng không ít thách thức cho phát triển giáo dục. Mặt trái của kinh tế thị trường có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục còn nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế thị trường, các ngành, nghề chưa được chuyên môn hóa sâu sắc, tất yếu tác động trở lại, tạo sức ép đối với hệ thống giáo dục quốc dân. Nhưng cũng chính vì vậy, yêu cầu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Thực hiện yêu cầu này cần chú ý một số điểm sau đây:

Một là, mục đích cơ bản và trực tiếp của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục là nhằm tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục (đặc biệt là cơ sở giáo dục đại học); bảo đảm giáo dục khai phóng (liberal education) và tự do học thuật trong phát triển giáo dục, từ đó có được chất lượng giáo dục và phát triển giáo dục. Trong pháp luật Việt Nam và một số nước hiện nay, công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình được nhận thức gắn trực tiếp với phòng và chống tham nhũng, coi đó là công cụ hàng đầu và hữu hiệu để kiểm soát và giảm thiểu tham nhũng, nhận thức đó là đúng nhưng chưa đầy đủ và chưa phải là căn bản.

Công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ để phòng chống tham nhũng mà quan trọng hơn, là cách thức để có một nhà nước liêm khiết, kiến tạo phát triển và phục vụ nhân dân, là yêu cầu căn bản của nguyên tắc pháp quyền rule of law. Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học quy định về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục phải đi liền với công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhưng nếu quản trị nhà nước không thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình thì cũng không thể nào có được đối với cơ sở giáo dục.

Hai là, công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm xã hội, là văn hóa và bản chất dân chủ trong quản lý nhà nước. Việc thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình thể hiện sự phát triển của nền dân chủ tại mỗi quốc gia. Một đất nước thực sự dân chủ, một nhà nước thực sự phục vụ nhân dân và phụng sự xã hội thì nhà nước đó phải thực sự tôn trọng nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, qua đó người dân thấy mình được tôn trọng và bảo vệ.

Một đất nước dân chủ thực sự, thực hiện nghiêm túc việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình thì cán bộ, công chức mới thấy được mình là người hưởng lương từ ngân sách, có trách nhiệm phục vụ công dân chứ không phải là quan trên, là người được dân trao quyền chứ không phải là cầm quyền cai trị, thống trị người dân. Quản trị nhà nước về giáo dục càng cần coi trọng công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, xem đó là trách nhiệm pháp lý đồng thời là văn hóa, lý do đơn giản: đây là lĩnh vực phát triển giáo dục.

Ba là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục đòi hỏi phải minh bạch và rõ ràng ngay trong hoạt động lập pháp và thực hiện pháp luật, phải làm rõ ngay từ trong nhận thức và triển khai thực hiện một số quan điểm đã được hiến định và pháp điển hóa: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “ Hệ thống giáo dục quốc dân”, “Quản lý nhà nước về giáo dục”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”… Rất nhiều thuật ngữ, cụm từ còn mang tính khẩu hiệu mà không rõ ràng, chưa minh bạch, chưa được giải trình với những nội dung cụ thể.

Quốc hội dành 20% ngân sách cho phát triển giáo dục nhưng việc phân bổ và sử dụng tổng thể 20% ấy chưa bao giờ được giải trình cụ thể, công khai, minh bạch. “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” mới chỉ là khẩu hiệu chính trị và ngôn ngữ nghị quyết, chưa được định lượng và chưa phải là hoạt động thực tiễn của cả hệ thống chính trị và chưa phải là “quốc kế dân sinh”. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục không phải chỉ là trách nhiệm của cấp trên giao cho cấp dưới mà thực sự phải là trách nhiệm của cơ quan quản trị nhà nước cấp cao nhất và trong toàn bộ hệ thống.

Bốn là, cần hình thành chế độ công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục. Nhân danh quyền lực nhân dân, chính quyền phải minh bạch và giải thích được, phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước nhân dân, trước dân tộc. Muốn vậy, phải thiết lập được chế độ trách nhiệm giải trình của cá nhân và tổ chức trong nền hành chính công và trong quản trị nhà nước về giáo dục. Nhà nước sẽ đảm nhận ngày càng nhiều chức năng điều tiết với quy mô gia tăng trong một nền giáo dục phát triển ở Việt Nam trong 10 năm, 20 năm tới và tầm nhìn đến 2050.

Muốn vậy, trách nhiệm giải trình của cá nhân/tổ chức trong nền giáo dục cung cấp dịch vụ công ngày càng phải được xác lập rõ ràng và trực tiếp hơn, trước các chủ thể quan hệ giáo dục, các tổ chức và cá nhân, trước xã hội, đặc biệt là trước nhân dân. Một trong các giải pháp cải cách thủ tục hành chính nói chung hiện nay là giải pháp về kiểm soát quá trình tổ chức thực hiện thủ tục hành chính đã được quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật về cải cách thủ tục hành chính.

Theo đó, thủ tục hành chính sau khi được ban hành phải được công bố, công khai và tổ chức thực hiện theo đúng quy định pháp luật, gắn với trách nhiệm tổ chức thực hiện của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức và quyền giám sát của người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Công khai minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng được quy định tại Điều 28 Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH hợp nhất Luật Phòng, chống tham nhũng. Các yêu cầu đó phải được cụ thể hóa rõ ràng, minh bạch hơn trong lĩnh vực giáo dục.

Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và trong quản trị nhà nước về giáo dục bắt nguồn từ các học thuyết về sự kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế lạm quyền, bởi vì nhà nước và những cá nhân, tổ chức đại diện nắm giữ quyền lực công luôn có xu hướng lạm quyền.

Nội dung công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đã được xác định rõ trong luật, đồng thời với tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định rõ ràng, minh bạch và thực tế hơn thì vấn đề quan trọng hơn cả là thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn vậy, cần tiếp tục hoàn thiện thực hiện các quy định pháp luật về quyền được thông tin trong lĩnh vực giáo dục; sửa đổi, hoàn thiện và công khai quy định về danh mục bí mật nhà nước nói chung và trong lĩnh vực giáo dục; xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về thủ tục hành chính và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó có quản trị nhà nước về giáo dục; tiếp tục xây dựng, ban hành và áp dụng các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với  trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý và cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục, xây dựng bộ quản trị nhà nước về giáo dục liêm chính, kiến tạo phát triển và phục vụ nhân dân.

PGS. TS. LS. CHU HỒNG THANH

/mot-so-vuong-mac-trong-viec-xet-mien-giam-cac-khoan-thu-nop-ngan-sach-nha-nuoc-theo-quy-dinh-cua-luat-thi-hanh-an-dan-su.html