Cụ Nguyễn Văn Tứ tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1945.
Cụ Nguyễn Văn Tứ xuất thân trong một gia đình nông dân ở làng Khổng Yên, xã Nghĩa Yên (cũ) nay Đức Yên, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Do nhà nghèo trong 4 anh chị em, chỉ một mình cụ được đi học. Năm 1937, học hết tiểu học (Primaire) phải nghỉ.
Những năm 1930-1931, trong làng có một số đảng viên cộng sản như: Anh Đinh Quang, Nghiêm Ký, Nguyễn Văn Giảng, một số trí thức đi theo Đảng như: Nghiêm Sĩ Sành, Nghiêm Thưởng, Nghiêm Trúc, lãnh đạo nhân dân trong làng tổ chức nhiều hoạt động yêu nước. Đặc biệt, thanh niên được Đảng quan tâm dìu dắt, bồi dưỡng, tổ chức hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ, biểu diễn ca kịch nhiều nơi trong huyện để vận động quần chúng đi theo cách mạng. Cụ Nguyễn Văn Tứ là một thanh niên hoạt động tích cực trong đội thanh niên, văn hóa, văn nghệ.
Năm 1939, cụ cùng với thanh niên trong xã vận động bà con xây dựng Trường tiểu học thôn Khổng Yên. Cụ là một giáo viên đầu tiên dạy ở trường này. Trường dạy chữ, dạy làm người, truyền bá tinh thần yêu nước thương dân cho các em.
Sau 2 năm dạy học ở trường do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn cụ phải chia tay các em vào Đà Lạt làm ăn, giúp đỡ gia đình. Ở đó, một số bà con người Đức Thọ vào trước đó như các ông Nghiêm Trang, Nghiêm Ký, Nghiêm Đào, Đinh Hinh thành lập Hội Nghĩa Yên tương tế nhằm giúp đỡ những bà con quê hương vào đây làm ăn còn gặp khó khăn. Hội có ngôi nhà gọi là “Nhà hội” để cho những người mới vào tá túc tìm kiếm việc làm. Cụ ở với anh chị em trong ngôi nhà đó, ban ngày đi làm xây dựng đào đất, đổ đá, đắp nền, đêm về dạy chữ quốc ngữ cho những người chưa biết. Sau vài ba tháng anh chị em biết đọc, biết viết, viết được thư về cho gia đình ở quê nhà và bạn bè. Trong số này có nhiều người sau này trở thành cán bộ của Đảng như ông Đinh Văn Thiều.
Vào Đà Lạt khoảng 5 tháng cụ được người quen đưa vào làm vườn cho chủ khách sạn Langbiang Place (lớn nhất Đông Dương). Làm được một thời gian thấy cụ hiền lành, chăm chỉ, tháo vát nên được bố trí vào phụ bếp lo việc giết mổ gia súc, gia cầm, rửa, lau chùi xoong, chảo, bát, đũa, quét dọn cống rãnh. Đầu bếp thấy cụ làm khéo, sạch sẽ, chu đáo, giao cho pha cà phê phục vụ khách nhiều nước châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi đi nghỉ mát ở Đà Lạt.
Ở Đà Lạt cụ tham gia hội “Ái hữu Nghệ Tĩnh” do một số đảng viên quê Nghệ An và Hà Tĩnh thành lập. Khi đó cụ Phạm Khắc Hòe quê xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ làm Quản đạo Đà Lạt (ngang với quan huyện) xin lập ra ấp “Nghệ Tĩnh” nên bà con ở Nghệ Tĩnh có đất ở ổn định, làm nghề trồng rau, trồng hoa.
Công việc đang ổn định thì một hôm cụ cho nhân viên người Việt Nam uống cà phê (trong khách sạn cấm người Việt Nam uống cà phê) và bếp trưởng phát hiện. Cụ bị mắng nhiếc, đánh đập thậm tệ, đuổi ra khỏi khách sạn.
Thất nghiệp, cụ xuống Nha Trang tìm việc làm. Thấy cụ người cao lớn khỏe mạnh, Pháp bắt đi lính hải quân, đưa vào Sài Gòn huấn luyện. Vào đây cụ gặp một số anh em quê Nghệ Tĩnh như ông Bùi Cửu, ông Vương Thúc Cương, cháu ngoại cụ Phan Bội Châu, cháu nội cụ Vương Thúc Quí - người dạy chữ Hán cho Bác Hồ hồi còn niên thiếu, truyền bá thêm cho lý tưởng cộng sản, bộ mặt thật của đế quốc Pháp. Huấn luyện xong bọn chúng đưa cụ xuống 1 chiếc tàu nhỏ đi tuần tra ven biển, kênh rạch các tỉnh Nam Bộ, lên cả Biển Hồ Campuchia. Công việc của cụ hàng ngày chùi rửa boong tàu, gõ rỉ và sơn lại vỏ tàu, quay neo, thả neo khi tàu chạy và đỗ. Đi tàu lính Pháp và lính Việt ở chung với nhau, nhưng bị khinh biệt, đối xử thậm tệ.
Ngày 09/3/1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương, quân đội Nhật bắt giam cả lính Pháp, lính An Nam đi lao động khổ sai, nhân lúc chúng sơ hở cụ thoát khỏi trại giam về vùng Hòa Hưng, Sài Gòn - Chợ Lớn. Về đây cụ gặp được những người đồng hương giác ngộ cách mạng như ông: Nguyên Xuân Diệu (quê Thanh Chương), Hồ Viết Thư (Nam Đàn), Nguyễn Trí Định (Hương Sơn), Phạm Xuân Lan (Diễn Châu). Cụ được giới thiệu gia Việt Minh, vào lực lượng Thanh niên tiền phong do ông Phạm Tường Hạnh làm thủ lĩnh. Cùng với địa phương tổ chức tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Việt Minh, của cách mạng, tham gia biểu tình đấu tranh chính trị chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
Ngày 25/8/1945 cụ cùng anh em trong lực lượng thanh niên tiền phong đi đầu với người dân Sài Gòn - Chợ Lớn rầm rập đổ xuống đường khởi nghĩa thành công giành chính quyền về tay nhân dân. Người dân Sài Gòn - Chợ Lớn vô cùng sung sướng.
Ngày 02/9/1945 cụ cùng với bà con Sài Gòn - Chợ Lớn và người dân vùng xung quanh khoảng hơn 2 triệu người dự cuộc mít tinh biểu dương lực lượng. Cụ Tứ cùng với anh em lực lượng thanh niên tiền phong bảo vệ bà con tuần hành.
Ngày 23/9/1945 Nam bộ kháng chiến, cụ Tứ trực tiếp đánh địch ở Cầu Kiệu, Chùa Bà Đàm, Bà Chiểu, sau rút về Biên Hòa huấn luyện du kích ở Trại Vĩnh Cửu. Đây là lực lượng du kích đầu tiên ở Biên Hòa do ông Nguyễn Xuân Diệu và ông Phan Đình Công chỉ huy. Ông Nguyễn Xuân Diệu trong những năm đầu chống Pháp là Ủy viên Quân sự, Ủy ban kháng chiến, hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn.
Tháng 11/1945, một số anh em lực lượng du kích ở trại Vĩnh Cửu có hoàn cảnh gia đình vô cùng khó khăn, trong đó có cụ Tứ ra Bắc. Về quê cụ xây dựng gia đình với bà Nghiêm Thị Châu, người cùng làng. Về quê cụ tham gia huấn luyện dân quân du kích, làm Trưởng ban Bình dân học vụ, đầu năm 1948 cụ được Chi bộ xã Nghĩa Yên kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, 1 năm sau vợ cụ bà Châu cũng được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Cuối năm 1950, cụ được Huyện ủy Đức Thọ điều bổ sung cán bộ cho Tỉnh Hội Nông dân cứu quốc Hà Tĩnh. Tháng 02/1952 cụ chuyển sang công tác ở Sở Mậu dịch tỉnh Hà Tĩnh. Đầu năm 1955 Phân Sở Mậu dịch Liên khu 4 điều cụ ra Nghệ An xây dựng Công ty xuất nhập khẩu Bến Thủy.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ Nghệ Tĩnh bị kẻ địch đánh phá vô cùng ác liệt, cụ mất 1 cậu con trai, vợ bị thương, nhà cửa bị bom đánh tan tành. Mặc dù hoàn cảnh vô cùng khó khăn nhưng cụ luôn xem công việc nhà nước trên hết, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cụ là tấm gương sáng cho cán bộ, công nhân noi theo học tập.
Năm 1980, cụ về nghỉ hưu. Hai vợ chồng cụ đã cống hiến cho đất nước suốt cả trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Cụ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, cán bộ tiền khởi nghĩa. Đến nay cụ tròn 74 tuổi Đảng.
Cụ nhiều lần viết thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và viết thơ tặng Đại tướng, có câu:
"Võ lược, Văn tài, bậc tướng lĩnh lừng danh thời đại
Đức cao, nghĩa rộng, đấng hiền tài sử sách ghi tên".
Ngày 27/4/2007, cụ được Đại tướng mời gặp tại nhà riêng. Tết Nhâm Thìn năm 2012, cụ viết thơ chúc Đại tướng tròn 100 tuổi. Bà Bích Hà đọc thơ cho Đại tướng nghe và điện thoại cho cụ biết Đại tướng rất vui. Bài thơ có đoạn:
"Trăm tuổi càng sáng ngời
Ngôi sao Điện Biên Phủ
Vị tướng tài lịch sử
Thời đại Hồ Chí Minh
Cùng non sông sáng mãi tên anh
Như một vì sao mai
Chẳng bao giờ tắt lặn".
Nhận được tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời vào lúc 18h09 ngày 04/10/2013, thượng thọ 103 tuổi cụ vô cùng xúc động và đã viết bài thơ “Vị tướng tài huyền thoại”. Trong bài thơ có đoạn:
“Cả một đời cách mạng,
Được sống cạnh Bác Hồ
Tuân lời Bác dặn dò:
Luôn “dĩ công vi thượng”
Bụi trần không chút vướng
Đạo đức quán nhân tâm
Võ Bác đặt tên Văn
Bởi một đời vì nước…”.
Cụ được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời gặp tại nhà riêng.
Từ năm 1997 đến nay, cụ Tứ có thói quen ghi chép tỉ mỉ các sự kiện diễn ra trong nước và trên thế giới. Các lần Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ I đến lần thứ XIII, cụ ghi và đánh dấu những nội dung quan trọng cần đọc, để tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Đến nay, cụ ghi được gần 50 tập, đánh dấu thứ tự từng tập, để lại cho con cháu mai sau tra cứu.
Năm nay, cụ Tứ tròn 102 tuổi, một đảng viên gương mẫu, luôn theo sát tình hình thời sự trong và ngoài nước, vận động con cháu chấp hành nghiêm pháp luật, làm việc có ích cho xã hội, cho đời. Cụ là một tấm gương sáng về tinh thần lạc quan, phẩm chất đạo đức cách mạng để cho mọi người học tập, noi theo. Người dân kính trọng, thân thương gọi cụ là “một chiến sĩ cộng sản mẫu mực”.
HẢI HƯNG