Trình bày mở đầu Phiên họp chuyên đề, Luật sư, Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết: Biển Đông là một trong những vùng biển lớn trên thế giới, là địa bàn chiến lược có giá trị về chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng... Bởi đó là môi trường tự nhiên rộng lớn, đến hơn 3 triệu km2, bao gồm vùng biển, đảo, quần đảo, nguồn tài nguyên phong phú. Trên vùng biển này có con đường hàng hải quốc tế huyết mạch bậc nhất thế giới, là mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây cũng là nơi đang tồn tại những quyền và lợi ích đan xen không những giữa các quốc gia trong khu vực mà còn cả những quốc gia ngoài khu vực. Là khu vực đang đứng trước những đe dọa, thách thức...
Luật sư, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ trình bày tại Phiên họp chuyên đề.
Vì vậy, theo đánh giá của giới học giả, chính trị gia và chuyên gia pháp lý, trong Biển Đông đã và đang tồn tại những bất đồng, tranh chấp rất phức tạp.
Có thể nói, về chiến lược, đó là tranh chấp chính trị, kinh tế, quân sự giữa các quốc gia trong khu vực và quốc tế khi xác định ranh giới phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS1982.

Tiến sĩ, Luật sư Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam tham dự Phiên họp chuyên đề.
Theo Tiến sĩ, Luật sư Trần Công Trục, các nguyên tắc của luật pháp quốc tế về quyền thụ đắc lãnh thổ gồm:
- Nguyên tắc “chiếm hữu thực sự”: Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (res nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto). Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.
- Nguyên tắc “chủ quyền lịch sử”: “Chủ quyền lịch sử” dựa vào các tài liệu lịch sử như các sử sách, bản đồ... để khẳng định rằng từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử, người dân đã phát hiện, khai phá, đặt tên và thực hiện chủ quyền.
- Nguyên tắc “kế cận địa lý”: Các vùng lãnh thổ nào nằm kế cận lãnh thổ của quốc gia đều phải thuộc chủ quyền của quốc gia đó.
Do đó, việc tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực được thừa nhận rộng rãi là nền tảng đảm bảo hoà bình và ổn định quốc tế; và cũng là khuôn khổ chung cho các quốc gia giải quyết tranh chấp hoà bình và hợp tác.

Tiến sĩ, Luật sư Đào Ngọc Chuyền, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam tham dự Phiên họp chuyên đề.
Đối với các tranh cãi về cách giải thích và áp dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) với những tranh chấp tại khu vực Biển Đông, ông Trần Công Trục cho rằng đây là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi có tính chất cách mạng về chính trị, kinh tế trên phạm vi toàn thế giới với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã được đặt dưới chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 ra đời.
Với sự phát triển của Luật Biển quốc tế, đặc biệt với sự ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, trong đó chính thức thừa nhận chế định vùng đặc quyền kinh tế và một khái niệm rõ ràng hơn cả về mặt địa chất và pháp lý cho thềm lục địa đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể phạm vi không gian biển của các quốc gia ven biển và vì thế, cũng kéo theo sự gia tăng nhanh chóng các vùng biển chồng lấn giữa các quốc gia láng giềng. Điều này làm xuất hiện rất nhiều tranh chấp về các ranh giới biển giữa các quốc gia với nhau.
Theo tính toán của Bộ Ngoại giao Mỹ từ năm 1988, các quốc gia trên thế giới cần thoả thuận phân định 427 đường biên giới trên biển. Trong số đó, mới chỉ có 168 biên giới biển được thoả thuận, tương đương 39%. Còn lại rất nhiều ranh giới biển vẫn còn đang trong tình trạng tranh chấp. Kết quả là, trên thế giới còn khoảng 416 tranh chấp về ranh giới biển, thềm lục địa cần được hoạch định, trong đó khu vực Đông Nam châu Á có khoảng 15 tranh chấp.
Đa số các nhà khoa học và chuyên gia luật biển quốc tế vẫn tiếp tục khẳng định luật pháp quốc tế, trong đó Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) là xương sống, khuôn khổ cho hành vi ứng xử của các quốc gia trên biển.

Khách mời quốc tế trao đổi cùng các diễn giả.
Tại Hội nghị, Tiến sĩ, Luật sư Trần Công Trục cũng nêu rõ vấn đề hoạch định ranh giới biển giữa Việt Nam và các quốc gia ven Biển Đông, cụ thể:
- Vùng chồng lấn và vấn đề hoạch định vùng chồng lấn.
Các quốc gia có biển nằm đối diện hay kế cận nhau, khi xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS 1982 và tùy theo khoảng cách bờ biển của các nước nằm đối diện hay kế cận nhau đã tạo ra Vùng nội thủy chồng lấn, Vùng lãnh hải chồng lấn, Vùng Đặc quyền kinh tế chồng lấn và vùng Thềm lục địa chồng lấn.
Để giải quyết loại tranh chấp này, các quốc gia ven biển sẽ tiến hành đàm phán để phân định ranh giới các vùng chồng lấn đó theo các nguyên tắc đã được UNCLOS 1982 quy định.
Trong khi đàm phán hoạch định vùng chồng lấn, nếu chưa thống nhất được phương án cuối cùng, các bên có thể sử dụng giải pháp tạm thời có tính thực tiễn: “khai thác chung” vùng chồng lấn Nhưng chỉ áp dụng giải pháp này cho vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn.
Trong vùng lãnh hải chồng lấn không áp dụng giải pháp tạm thời này mà chỉ có quy định liên quan đến vai trò của Trung tuyến như được quy định tại Điều 15 UNCLOS 1982.
- Kết quả đàm phán hoạch định vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các nước xung quanh Biển Đông.
Phân định vùng thềm lục địa chồng lấn giữa Việt Nam - Indonesia và vùng Đặc quyền Kinh tế chồng lấn giữa Việt Nam - Indonesia. Theo đó, năm 2003, Việt Nam và Indonesia đã ký một hiệp ước về phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) chồng lấn. Đến cuối năm 2022, hai bên đã hoàn tất quá trình đàm phán về phân định vùng EEZ chồng lấn. Hiện nay, hai bên đang tiến hành thủ tục phê chuẩn. Tuy nhiên, hai bên vẫn cần thống nhất về các hoạt động trong khu vực chồng lấn được tạo ra bởi sự khác biệt trong vị trí của hai đường ranh giới.
- Nhận xét và những vấn đề còn tồn tại cần tiếp tục giải quyết: Hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa và các quần đảo ngoài khơi Biển Đông; hiệu lực của các thực thể địa lý nằm xa bờ biển, đặc biệt là các thực thể địa lý của 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Xu hướng mới mang tên “Cách tiếp cận đa phương” đối với vấn đề Biển Đông: Xu hướng và vai trò của cách tiếp cận đa phương trong vấn đề Biển Đông: Từ góc độ ASEAN, chủ nghĩa đa phương có vai trò quan trọng đối với các nước nhỏ, góp phần giảm thiểu các rủi ro, nhất là khi đối phó với hành động gây hấn của các nước lớn; Trong bối cảnh thách thức như hiện nay, ASEAN vẫn đóng vai trò quan trọng nhưng không phải là duy nhất trong vấn đề Biển Đông.
ASEAN vẫn tiếp tục thể hiện vai trò trung tâm, đã xây dựng và vận hành nhiều cơ chế dẫn dắt các nước khu vực và các nhóm đa phương khác. ASEAN cần tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt trong những vấn đề đòi hỏi có hành động và nỗ lực tập thể, trong đó có an ninh trên không gian biển. Ý tưởng hợp tác kinh tế biển xanh (blue economy) là một hướng đi để cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và quản lý bền vững biển và đại dương, trong đó quốc gia là chủ thể quan trọng, góp phần đảm bảo sử dụng biển bền vững.

Ông Varun K. Chopra, Văn phòng Luật VKC (Ấn Độ).
Bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề an ninh trong tranh chấp tại khu vực Biển Đông, bên cạnh sự đồng tình với một số quan điểm của Luật sư Trần Công Trục, ông Varun K. Chopra, Văn phòng Luật VKC (Ấn Độ) cho rằng: Đây là tuyến đường hàng hải, năng lượng và giao thương quan trọng, nó kết nối với các khu vực khác trên thế giới. Do đó, các tranh chấp trong khu vực này sẽ là nguồn gốc cho sự căng thẳng, tiềm ẩn các nguy cơ xung đột và thậm chí đối đầu quân sự gia tăng. Vì vậy, cơ chế pháp lý để giải quyết tranh chấp phải thông qua cơ chế đàm phán và trọng tài hoặc xây dựng các hệ thống pháp luật về đại dương để áp cho cả khu vực này…

Bà Kokila Vaani Vadiveloo, Hãng luật Kumar Chambers (Malaysia).
Bà Kokila Vaani Vadiveloo, Hãng luật Kumar Chambers (Malaysia) cho rằng: Các tranh chấp trong khu vực Biển Đông đã, đang tồn tại từ lâu và cũng có các phát sinh mới. Tuy nhiên, các hệ thống pháp luật để giải quyết tranh chấp lâu nay thiếu cơ chế thực thi mà chỉ dựa trên sự thiện chí và tự nguyện của các bên tranh chấp. Thực tế, các điều khoản pháp lý để giải quyết tranh chấp chưa đầy đủ, rõ ràng, dẫn tới làm các quốc gia có tranh chấp diễn giải có lợi cho quốc gia mình. Ngoài ra, cơ chế giải quyết tranh chấp cũng rất phức tạp và kéo dài; không đảm bảo hoà bình, hợp tác và an ninh hàng hải tại khu vực Biển Đông.

Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Bá Cường, Giám đốc Điều hành của Hãng Luật VNJUST (Việt Nam).
Theo Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Bá Cường, Giám đốc Điều hành của Hãng Luật VNJUST (Việt Nam) cho rằng: Việc tuân thủ các nguyên tắc của UNCLOS 1982 trong giải quyết tranh chấp của các bên tại Biển Đông được coi như là tấm khiên và lưỡi gươm để bảo vệ mình. Bên cạnh đó, phải khai thác triệt để các bằng chứng lịch sử và khẳng định các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực này là bất hợp pháp theo Công ước UNCLOS 1982…

Toàn cảnh Phiên họp chuyên đề.
Phiên họp chuyên đề “Củng cố nền tảng hòa bình, hợp tác và phát triển ở Đông Á dựa trên Luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982)” - Hội nghị LAWASIA 38 đã thu hút được sự quan tâm của giới luật sư trong nước và quốc tế.
Tiến sĩ, Luật sư Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Tiến sĩ, Luật sư Trần Công Trục cũng nhấn mạnh vai trò của giới luật sư, luật gia trong việc giải quyết các bất đồng tranh chấp trên Biển Đông như:
- Tham mưu, đề xuất các giải pháp phù hợp để bổ sung và điều chỉnh các yêu sách về các vùng biển và thềm lục địa của các quốc gia ven Biển Đông theo quy định của UNCLOS 1982.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về thượng tôn pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 và Phán quyết của Tòa Trọng tài Phụ lục VII trong vụ kiện Biển Đông; sớm hoàn thành COC và đặc biệt tăng cường hợp tác với nhau cũng như với các quốc gia ngoài khu vực để cùng giải quyết các vấn đề quan ngại chung như phát triển năng lượng sạch, thúc đẩy nghiên cứu khoa học biển, phòng chống nước biển dâng, bảo vệ hệ sinh thái biển…
- Tham gia chuẩn bị xây dựng hồ sơ pháp lý có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
- Tham gia đàm phán song phương hay đa phương, với tư cách là cố vấn pháp lý.
- Tham gia vào các vụ kiện tại các cơ quan tài phán quốc tế với tư cách là những cố vấn pháp lý, luật biển, luật sư bảo vệ các các bên nguyên và bên bị.
Hội nghị thường niên Hiệp Hội Luật Châu A-Thái Bình Dương tiếp tục làm việc với các phiên chuyên đề theo kế hoạch.

