Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, sáng 20/11, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi).
Thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), đa số các ý kiến thống nhất cao với sự cần thiết ban hành Luật này nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, định hướng lớn của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học.
Vấn đề mô hình đại học vùng là một trong những nội dung nhận được nhiều sự quan tâm thảo luận của các Đại biểu Quốc hội.

Toàn cảnh Phiên thảo luận sáng 20/11. Nguồn: Qucohoi.vn.
Theo đó, đồng tình với việc mở rộng đối tượng điều chỉnh tại Điều 11 của dự thảo Luật, tuy nhiên, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Văn Thi (Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh) bày tỏ lo ngại về mô hình đại học vùng, được hình thành từ thập niên 1990 với mục tiêu khi đó là tập trung nguồn lực đào tạo nhân lực vùng, sử dụng chung cơ sở vật chất và nhân lực, làm đầu mối để liên kết phát triển khu vực. Đồng thời bày tỏ băn khoăn liệu có nên tiếp tục duy trì mô hình này?
Phân tích một số tồn tại, bất cập của mô hình đại học vùng hiện nay, Đại biểu Nguyễn Văn Thi nêu rõ, về tổ chức bộ máy, các đại học vùng hiện nay đang trở thành cấp trung gian hành chính. Đại học vùng không được giao ngân sách vùng, không có thẩm quyền điều phối đầu tư, nhân sự hay khoa học công nghệ.
Đại biểu cũng phân tích, thay vì tinh gọn bộ máy, đại học vùng lại làm tăng tầng nấc quản lý giữa Bộ và các trường, xuất hiện đầu mối phụ, kéo dài thủ tục, phân tán trách nhiệm. Điều này đi ngược với tinh thần của Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị là xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất hiệu quả. Đại học vùng chưa tổ chức được việc sử dụng chung nguồn lực. Các chương trình liên thông, đào tạo chung thì không được vận hành. Việc tăng đầu mối đã làm tăng thêm biên chế. Việc sử dụng chung giảng viên thì mới dừng ở mức là điều chuyển giữa các trường.
Về vấn đề tự chủ, Đại biểu Nguyễn Văn Thi nêu rõ, thực tế các trường đại học thành viên của đại học vùng có tư cách pháp nhân, có đủ năng lực và quy mô để hoạt động độc lập, song vẫn bị ràng buộc bởi cơ chế hai tầng, phải trình qua đại học vùng rồi mới đến Bộ trong các thủ tục đầu tư, mở ngành, hợp tác quốc tế dẫn đến mất cơ hội và giảm tính linh hoạt.
Về vấn đề nhận diện thương hiệu, Đại biểu Nguyễn Văn Thi cho rằng, thương hiệu đại học vùng chưa được nhận diện rõ ràng, ở nhiều ngành thì xã hội ghi nhận tên trường thành viên hơn là tên đại học vùng, làm hạn chế năng lực cạnh tranh, ảnh hưởng đến xếp hạng và hợp tác quốc tế.
Từ những phân tích thực tiễn nêu trên, Đại biểu Nguyễn Văn Thi đề nghị cần tiếp tục có đánh giá kỹ lưỡng về vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của mô hình đại học vùng trong thời gian qua để nghiên cứu đề xuất sửa đổi, hoàn thiện dự thảo Luật Giáo dục đại học lần này, tạo hành lang pháp lý và phát huy vai trò mở đường, kiến tạo, phát triển khi xây dựng Luật để nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học.
Bên cạnh đó, Đại biểu đề nghị xem xét xây dựng cấu trúc hệ thống cơ sở giáo dục đại học bao gồm trường đại học, đại học Quốc gia, đại học đa ngành và trường đại học có tên gọi là học viện. Riêng đối với mô hình đại học vùng, Đại biểu Nguyễn Văn Thi đề nghị cần xem xét kỹ lưỡng liệu có nên tiếp tục duy trì mô hình này hay không. Bởi những tồn tại, bất cập nêu trên đã duy trì, kéo dài nhiều năm nay.
Từ đó, cần có quy định để chuyển đổi các đại học vùng hiện hữu phù hợp, cần tổ chức lại để tạo động lực cho các trường đại học thành viên phát triển mạnh hơn. Trong đó, đối với các trường đại học thành viên đã có bề dày truyền thống, đã có thương hiệu thì có thể cho tổ chức lại, trở thành trường thuộc Bộ để đảm bảo quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học theo đúng tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Cùng quan điểm, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân (Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh) cũng đặt vấn đề xem xét mô hình đại học vùng có nên tồn tại hay không nên tồn tại?
Nêu thực tế Đại học Quốc gia và đại học vùng hiện nay cơ cấu như nhau, và hiện có 02 Đại học Quốc gia đã xác định thương hiệu của Việt Nam, do đó, Đại biểu Nguyễn Quang Huân cho rằng, tạm thời chúng ta cứ xem xét, không nên quyết định ngay.
“Nếu coi đại học vùng là cơ sở thì như vậy không bám sát tinh thần của Nghị quyết số 71-NQ/TW. Nếu bám sát tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW, chúng ta phải thực sự xác định lại xem đại học vùng có nên tồn tại hay không nên tồn tại?”, Đại biểu nêu quan điểm.
Bên cạnh đó, Đại biểu đề nghị cần xác định cách gọi các trường đại học ở trong đại học. Đại biểu cho rằng, cách gọi trước đây không làm trong sáng tiếng Việt và cũng không theo thông lệ quốc tế. “Các trường đại học quốc tế không bao giờ dùng từ “University” ở bên trong “University”, mà một University có nhiều College hay Institute, tức là có nhiều viện hoặc nhiều trường. Do đó, tôi nghĩ rằng, chúng ta nên xem xét lại cách gọi tên các cơ sở ở trong trường đại học lớn, các trường đại học đa ngành và trường Đại học Quốc gia”, Đại biểu kiến nghị.
Vì vậy, Đại biểu Nguyễn Quang Huân cho rằng, đối với các trường lớn, trường đa ngành nên gọi là đại học, còn các tổ chức ở bên trong đó có thể gọi là trường.
Đại biểu Quốc hội Lê Thị Thanh Lam (Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Cần Thơ) thì kiến nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu và quy định thêm về mô hình đại học vùng. Xung quanh mô hình này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, trong đó có ý kiến là nên bỏ hoặc tổ chức lại mô mô hình này để hiệu quả cao và giảm tính trung gian.
Theo Đại biểu, hiện nay nước ta có ba đại học vùng: Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên và Đại học Huế. Tại Điều 13 của dự thảo Luật mô tả về Đại học Quốc gia khá chi tiết, trong khi đại học vùng được mô tả ở khoản 2 Điều 12 như mô tả chung cho các cơ sở giáo dục đại học ở khoản 1 và chỉ thêm nội dung: “đồng thời có nhiệm vụ liên kết vùng, phát triển vùng, góp phần thực hiện chiến lược phát triển quốc gia”.
Đại biểu Lê Thị Thanh Lam nhận thấy, nhiệm vụ này thì đại học nào cũng thực hiện, nói cách khác là vai trò của các cơ sở đại học và đại học vùng thì không khác nhau. Theo Thông tư số 10 năm 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đại học vùng có Hội đồng và Ban Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý nhiều trường đại học thành viên cùng các đơn vị trực thuộc như khoa, trung tâm, viện nghiên cứu. Đại học vùng vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước được Bộ phân cấp, vừa trực tiếp tổ chức đào tạo, nghiên cứu các khoa như cơ sở giáo dục đại học.
Chỉ rõ thực tế mô hình này trở thành một cấp trung gian giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các trường thành viên, vừa làm chủ quản vừa làm đơn vị sự nghiệp khiến cơ chế trách nhiệm bị phân tán, quyền tự chủ của trường của thành viên cũng bị hạn chế, Đại biểu Lê Thị Thanh Lam cho rằng, điều này không phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Trung ương với yêu cầu giảm đầu mối, đẩy mạnh phân cấp và xóa bỏ cấp trung gian để bảo đảm quản trị thống nhất, hiệu quả.
Từ các cơ sở trên, Đại biểu Lê Thị Thanh Lam kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu nên bỏ quy định đại học vùng hoặc tái cấu trúc mô hình đại học vùng trong hệ thống cơ sở giáo dục đại học. Các trường thành viên của đại học vùng hầu hết mang tính chuyên ngành mà đây không phải là xu hướng của các đại học trên thế giới. Vì đại học đa ngành, đa lĩnh vực và liên ngành mới là xu hướng hiện nay.
Đại biểu kiến nghị nên cấu trúc các trường đại học thành viên trong đại học vùng thành các đại học đa ngành, lĩnh vực với nhiều trường chuyên ngành. Điều này có thể mỗi đại học vùng sẽ có nhiều đại học độc lập đủ mạnh, đủ tiếp tục đầu tư để mạnh và đạt các tiêu chí, tiêu chuẩn theo quốc tế và đóng vai trò đào tạo nhân lực nghiên cứu.
“Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chủ trương tinh gọn và tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp. Việc rà soát và sắp xếp lại mô hình đại học vùng là cần thiết. Bởi bãi bỏ mô hình này không phải từ bỏ các đại học đóng vai trò quan trọng cho phát triển vùng mà là thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW của Trung ương - xóa bỏ cấp trung gian, tinh gọn bộ máy và tăng quyền tự chủ thực chất cho các cơ sở giáo dục đại học để phát triển ngày càng mạnh hơn, đúng hơn với xu hướng phát triển chung của đại học”, Đại biểu Lê Thị Thanh Lam nhấn mạnh.
Đồng tình với các ý kiến nêu trên, Đại biểu Quốc hội Trần Thị Nhị Hà (Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội) cho rằng, tại Điều 11 của dự thảo Luật, cần phân định lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học theo thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đảm bảo rõ ràng và dễ hiểu. Theo đó, chỉ nên xác lập hai mô hình cơ bản: đại học đa ngành, đa lĩnh vực và đại học chuyên ngành đối những đối với những lĩnh vực đặc thù.
Thứ nhất, đại học đa ngành, đa lĩnh vực cần được xác định là mô hình đào tạo toàn diện ở tất cả các trình độ của giáo dục đại học, Đại học Quốc gia được xếp vào trong nhóm này. Nhưng với vị thế đặc biệt, giao những nhiệm vụ tầm cỡ quốc gia, cần được quy định rõ về cơ chế đặc thù do Chính phủ hướng dẫn nhằm đảm bảo nguồn lực đầu tư mũi nhọn, sự khác biệt, tạo điều kiện phát triển theo hướng đại học tinh hoa.
Đối với đại học vùng, Đại biểu cho rằng, có thể được sắp xếp vào mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Trong bối ảnh quốc gia đang đẩy mạnh chuyển đổi số, tiến hành sắp xếp lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học theo tinh thần của Nghị quyết số 71-NQ/TW với yêu cầu tinh gọn bộ máy, xóa bỏ cấp trung gian, việc tiếp tục quy định mô hình đại học vùng như một cấu trúc riêng trong Luật sẽ không còn phù hợp.
Mặt khác, Đại biểu Trần Thị Nhị Hà cho rằng, việc cụ thể hóa mô hình đại học như như Đại học Quốc gia hay những mô hình mới có thể hình thành trong tương lai nên được quy định tại các văn bản dưới luật.
Thứ hai, đối với mô hình đại học chuyên ngành tập trung vào những ngành đặc thù ở tất cả các trình độ của giáo dục đại học và sau đại học, Đại biểu nhận thấy, việc đào tạo và cấp văn bằng chứng chỉ cần được thực hiện thống nhất theo đặc thù của từng chương trình, đảm bảo tính chuyên sâu và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực.

