Theo đó, dự thảo Nghị định gồm 05 Điều, dự kiến sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, bảo đảm tuân thủ các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luật Căn cước. Trong đó, phần sửa đổi tập trung vào các quy định liên quan đến việc tạm giữ, quản lý và xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, với mục tiêu bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thực tiễn áp dụng.
Cụ thể, dự thảo đã bổ sung Điều 11a nhằm quy định cụ thể về việc niêm phong và mở niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ. Theo đó, người lập biên bản hoặc người có thẩm quyền tạm giữ sẽ căn cứ khoản 5a Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính để quyết định việc niêm phong. Tang vật, phương tiện bị tạm giữ được niêm phong bằng tem hoặc giấy niêm phong, dán tại những vị trí có thể mở hoặc thay đổi tình trạng tang vật nhằm bảo đảm tính nguyên trạng.
Đối với tang vật có kích thước lớn, không thể di chuyển, việc dán niêm phong được thực hiện tại các bộ phận đặc trưng, nhận dạng. Trường hợp tang vật có thể sử dụng khóa, dây chì hoặc hình thức bao bọc khác thì việc niêm phong được thực hiện sau khi bao bọc. Với các trường hợp không thể niêm phong tại hiện trường, cơ quan chức năng phải tiến hành niêm phong khi đưa tang vật về nơi tạm giữ.
Tem và giấy niêm phong sử dụng phải bảo đảm nguyên vẹn, không rách, không mờ và không bị làm giả. Giấy niêm phong phải thể hiện đầy đủ thông tin về cơ quan chủ trì, thời gian thực hiện, họ tên và chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia cùng với dấu của cơ quan thực hiện hoặc của chính quyền xã, phường, đặc khu nơi tổ chức niêm phong. Nếu pháp luật từng lĩnh vực có quy định riêng về mẫu tem hoặc giấy niêm phong thì thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Việc niêm phong được tiến hành trước mặt người vi phạm; nếu vắng mặt thì thực hiện trước mặt đại diện gia đình, tổ chức hoặc đại diện chính quyền địa phương hoặc ít nhất một người chứng kiến. Sau khi niêm phong phải lập biên bản theo mẫu quy định. Khi mở niêm phong, người có thẩm quyền thực hiện trước mặt người vi phạm hoặc người được giao quản lý tang vật; nếu người vi phạm vắng mặt thì nêu rõ lý do trong biên bản. Kết thúc quá trình mở niêm phong phải lập biên bản theo mẫu quy định của pháp luật.
Dự thảo đồng thời sửa đổi đoạn đầu và điểm a khoản 2 Điều 16 theo hướng bổ sung quy định thông báo trực tiếp hoặc qua Ứng dụng định danh quốc gia cho tổ chức, cá nhân về việc trả lại hoặc chuyển tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Khi tiếp nhận đề nghị nhận lại tang vật, người quản lý phải kiểm tra quyết định trả lại, quyết định chuyển tang vật cũng như thẻ căn cước, căn cước điện tử hoặc căn cước công dân của người đến nhận. Người nhận phải là người vi phạm, chủ sở hữu hoặc đại diện tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán và xử lý nợ hoặc đại diện tổ chức vi phạm hành chính theo quy định trong quyết định tạm giữ. Trường hợp ủy quyền thì phải có văn bản hợp lệ theo quy định pháp luật.
Tại Điều 17, dự thảo sửa đổi khoản 1 để thống nhất với các khoản 4, 4a và 4b Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính về xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép và chứng chỉ hành nghề hết thời hạn tạm giữ. Khoản 2 cũng được sửa đổi, bổ sung nhằm quy định rõ trách nhiệm tiếp tục quản lý, bảo quản tang vật khi đã quá thời hạn tạm giữ nhưng người vi phạm hoặc chủ sở hữu không đến nhận hoặc chưa xác định được người vi phạm. Việc quản lý tiếp tục duy trì trong thời gian thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng cho đến khi tài sản bị tịch thu, xử lý hoặc chuyển giao theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
Dự thảo bổ sung Điều 17a để quy định về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp. Đối với hàng hóa dễ hư hỏng, suy giảm chất lượng như thực phẩm tươi sống, hàng dễ cháy nổ, thuốc chữa bệnh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật sắp hết hạn, hàng thời vụ hoặc hàng công nghệ điện tử cao cấp có nguy cơ mất giá trị nếu không xử lý kịp thời, việc xử lý sẽ được áp dụng theo khoản 3 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với các hàng hóa, vật phẩm có nguy cơ gây hại cho sức khỏe, môi trường, việc xử lý thực hiện theo khoản 5 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Dự thảo cũng đề xuất thay thế và bãi bỏ một số cụm từ tại Điều 14, Điều 15 và Điều 16 để phù hợp với quy định mới. Theo đó, thay cụm từ “Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn” bằng “Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu”. Đồng thời bãi bỏ quy định yêu cầu cá nhân vi phạm khi gửi đơn phải kèm theo bản sao hoặc bản chính để đối chiếu Chứng minh nhân dân, Thẻ căn cước công dân hoặc giấy xác nhận công tác, do nội dung này đã được tích hợp trong quy định khác và phù hợp với Luật Căn cước. Tại các điểm thuộc Điều 14, Điều 15 và Điều 16, cụm từ “số chứng minh nhân dân” cũng được loại bỏ để thống nhất với hệ thống giấy tờ mới.
Tại dự thảo Tờ trình, Bộ Công an cho biết, sau gần 04 năm triển khai thi hành Nghị định số 138/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, ngăn chặn hiệu quả các hành vi vi phạm hành chính, tạo điều kiện để các cơ quan chức năng xác minh tình tiết của vụ vi phạm, làm căn cứ ra quyết định xử lý nghiêm minh, công khai, khách quan vụ việc vi phạm. Việc triển khai thi hành có hiệu quả Nghị định số 138/2021/NĐ-CP còn góp phần bảo đảm tính nguyên vẹn, chính xác của tang vật, phương tiện để phục vụ việc xử lý vi phạm, đồng thời ngăn chặn hành vi vi phạm tiếp tục xảy ra và thực hiện đúng quy định của pháp luật về quản lý, xử lý vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Nghị định 138/2021/NĐ-CP cũng đã đặt ra sự cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong cả Luật Xử lý vi phạm hành chính và trong Nghị định 138/2021/NĐ-CP như: kinh phí bảo đảm thực hiện cần tiếp tục được rà soát; việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ; xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp; trách nhiệm trong quản lý tang vật, phương tiện trong thời gian chờ chuyển giao theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và một số nội dung khác có liên quan để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Từ những lý do trên cho thấy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Nghị định số 138/2021/NĐ-CP để quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật Xử lý vi phạm hành chính, phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính.

