![]()
Cụ thể, dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 5 về "trợ cấp thôi việc". Theo đó, công chức thôi việc theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Nghị định này được hưởng trợ cấp thôi việc như sau: Cứ mỗi năm làm việc được tính bằng 1/2 tháng lương hiện hưởng, gồm: Mức lương theo ngạch, bậc, phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề và hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có). Mức trợ cấp thấp nhất bằng 01 tháng lương hiện hưởng.
Công chức nghỉ hưu trước tuổi theo nguyện vọng quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định này thì ngoài chế trợ cấp thôi việc quy định tại khoản 1 Điều này và chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội còn được hưởng các chế độ sau:
- Được trợ cấp 03 tháng tiền lương cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động;
- Được nâng bậc lương, nâng ngạch trước thời hạn, cụ thể như sau: Công chức chưa xếp bậc lương cuối cùng ở ngạch hiện giữ mà trong thời gian giữ bậc luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không bị kỷ luật và tại thời điểm nghỉ hưu trước tuổi còn thiếu từ 01 đến 12 tháng để được nâng bậc lương thường xuyên theo quy định thì được nâng bậc lương trước thời hạn để nghỉ hưu; Công chức đang hưởng bậc lương cuối cùng hoặc đang hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung ở ngạch hiện giữ, đã có bằng tốt nghiệp đại học trở lên, không bị kỷ luật trong thời gian 3 năm cuối trước khi nghỉ hưu thì được nâng ngạch không qua thi lên ngạch trên liền kề để nghỉ hưu.
Bộ Nội vụ cho biết đây là những chính sách khuyến khích thêm đối với công chức nghỉ hưu trước tuổi theo nguyện vọng, theo đó ngoài chính sách theo quy định tại khoản 1 (như trợ cấp thôi việc đối với các đối tượng hiện hành, đồng thời tương tự với chính sách quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định 108/2014/NĐ-CP nhưng tính trực tiếp theo năm công tác, bảo đảm tính công bằng, theo đó nếu công tác nhiều năm hơn thì sẽ hưởng trợ cấp nhiều hơn) thì còn được hưởng thêm các chính sách theo quy định tại khoản này mà đối tượng thôi việc và không hoàn thành nhiệm vụ không được áp dụng.
Ngoài ra, dự thảo cũng sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 quy định về thôi việc và thủ tục nghỉ hưu đối với công chức.
HÀ ANH
Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất
2.
![]()
Ảnh minh họa.
1. Đất bị Nhà nước thu hồi được tính tiền bồi thường như thế nào?
(LSVN) - Vừa qua, diện tích đất của gia đình tôi đang sử dụng bị Nhà nước thu hồi sử dụng cho mục đích khác. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì gia đình tôi sẽ được tính tiền bồi thường như thế nào? Bạn đọc K.Y. hỏi.
Điều 75 Luật Đất đai 2013 quy định điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với từng đối tượng người sử dụng đất.
Trong đó, quy định rõ điều kiện đối với hộ gia đình, cá nhân là:
- Đất đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm.
- Đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định Luật Đất đai 2013 nhưng chưa được cấp.
Ngoài ra, một trường hợp dù không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn được bồi thường về đất là: Đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004, mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Tiền bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi được tính theo giá đất cụ thể: Theo quy định của Luật Đất đai 2013, giá đất cụ thể được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) có thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, thành phố có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh, thành phố xác định giá đất cụ thể.
Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất, thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, thành phố trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình UBND cùng cấp quyết định.
Cách tính tiền bồi thường đất khi bị thu hồi
Theo điểm đ Khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai 2013, Khoản 5 Điều 4 Nghị định 44/2014/NĐ-CP và Khoản 4 Điều 3 Nghị định 01/2017/NĐ-CP, giá đất cụ thể được xác định bằng phương pháp hệ số điều chỉnh. Giá đất áp dụng đối với trường hợp tính tiền bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi được tính như sau:
Giá trị của thửa đất cần định giá (m2) = Giá đất trong bảng giá đất x Hệ số điều chỉnh giá đất.
Trong đó:
- Giá đất trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành ban hành áp dụng theo từng giai đoạn 05 năm. Muốn biết chính xác người dân phải xem đúng địa chỉ, vị trí thửa đất (vị trí 1, vị trí 2, vị trí 3, vị trí 4),…
- Hệ số điều chỉnh giá đất khi tính tiền bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định hệ số điều chỉnh giá đất cho từng dự án tại thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất. Nói cách khác, hệ số điều chỉnh giá đất sẽ không công bố trước và áp dụng theo từng năm như đối với trường hợp tính tiền sử dụng đất khi cấp Sổ đỏ, Sổ hồng cho diện tích vượt hạn mức.
Căn cứ vào quy định trên, người dân có thể nắm rõ cách tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để tự tính được số tiền bồi thường nhận được/m2.
HỒNG HẠNH
Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về dự án thu phí tự động không dừng
3.
Vướng mắc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án
(LSVN) - Hoạt động xét xử của Tòa án là giai đoạn tố tụng quan trọng, bản án, quyết định của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân, bản án có hiệu lực pháp luật phải được đảm bảo thi hành. Các Tòa án quân sự phụ trách xét xử trên địa bàn rộng, vụ án thường được xét xử lưu động, công tác đảm bảo để xét xử là vấn đề quan trọng đặt ra cần phải giải quyết, nhất là các vụ án có bị cáo bị tạm giam. Các bị cáo đang bị tạm giam, đến ngày xét xử Tòa phải ra lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo từ Trại tạm giam đến địa điểm xét xử và xét xử xong trả lại bị cáo cho Trại tạm giam hoặc dẫn giải bị cáo chuyển đi Trại giam để đảm bảo thi hành án.
![]()
Ảnh minh họa.
Thời gian qua, công tác trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và chấp hành án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, từng vụ án cụ thể việc trích xuất, dẫn giải bị cáo từ Trại tạm giam quân sự hoặc Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam Công an đến địa điểm xét xử và đi chấp hành án gặp những khó khăn, vướng mắc, cần được giải quyết, mặc dù Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã có hiệu lực pháp luật.
Trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án được quy định cụ thể trong Luật Thi hành án hình sự 2019; Thông tư liên tịch số 04/3013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 30/5/2013 của Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trích xuất phạm nhân để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử và một số văn bản khác có liên quan.
Thông thường các bị can khi bị khởi tố, truy tố, bắt tạm giam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, tạm giam tại Trại giam, Trại tạm giam quân sự. Khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, đến ngày xét xử Tòa án ra lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo gửi cho Trại tạm giam hoặc Trại giam và gửi cho Cơ quan thi hành án hình sự, Trại tạm giam hoặc Trại giam có nhiệm vụ thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo đến địa điểm xét xử. Việc thực hiện lệnh trích xuất, dẫn giải trước đây do lực lượng cảnh vệ thuộc các đơn vị cảnh vệ của quân đội đảm nhận, hiện nay việc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án do Cơ quan thi hành án hình sự và Trại Tạm giam hoặc Trại giam phối hợp thực hiện; trường hợp xét xử trong Trại tạm giam do cán bộ quản giáo, cảnh vệ của Trại thực hiện. Vấn đề đặt ra, khó khăn về lực lượng, phương tiện đảm bảo, dẫn giải bị cáo đến địa điểm xét xử và thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật với quãng đường xa và những tình huống phát sinh trên đường dẫn giải bị cáo thực hiện việc chuyển trại, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trường hợp bị cáo vừa phạm tội do Tòa án nhân dân xét xử, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam Công an. Tòa án quân sự xét xử trước, Tòa án nhân dân xét xử sau, bản án của Tòa án quân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đang trong giai đoạn điều tra, việc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án sẽ gặp khó khăn. Thẩm quyền trích xuất tại Điều 40 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra lệnh trích xuất đối với phạm nhân đang chấp hành án tại Trại tạm giam hoặc phạm nhân do cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện trực tiếp quản lý”.
Theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 04/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC về thẩm quyền trích xuất thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự cấp Quân khu ra lệnh trích xuất hoặc đề nghị trích xuất: ‘‘Đề nghị thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra lệnh trích xuất đối với phạm nhân thuộc Trại tạm giam, Nhà tạm giữ do Công an đia phương đó quản lý’’.
Tòa án quân sự làm công văn đề nghị Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh trích xuất bị cáo để xét xử, hoặc xét xử và đưa đi thi hành án đối với bị cáo phạm tội đã bị Tòa án nhân dân xét xử trước đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra lệnh trích xuất bị cáo từ Nhà tạm giữ Công an cấp huyện đến nơi Tòa án quân sự xét xử và dẫn giải đi chấp hành án sau khi xét xử xong. Vấn đề đặt ra ở đây, cơ quan đơn vị nào đảm nhận việc trích xuất, dẫn giải bị cáo? Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, Nhà tạm giữ Công an huyện hay Cơ quan điều tra hình sự Khu vực điều tra vụ án đó đảm nhận việc trích xuất, dẫn giải bị cáo đi xét xử, chấp hành án.
Thực tế, đây là vấn đề vướng mắc, Tòa án quân sự không thể yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo, Tòa án quân sự chỉ đề nghị các cơ quan này phối hợp để đảm bảo thuận lợi cho việc xét xử vụ án. Việc thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải, Tòa án quân sự phối hợp nhờ Cơ quan hay đơn vị nơi có án xảy ra, đảm nhận nhiệm vụ trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án. Việc này Tòa án đã vận dụng giải quyết tốt trong từng trường hợp cụ thể, tuy nhiên nếu có vấn đề sơ xuất xảy ra, ví dụ trên đường dẫn giải, bị cáo lợi dụng sơ hở của cán bộ dẫn giải trốn thoát, cá nhân, cơ quan nào chịu trách nhiệm? Tòa án đã ra lệnh trích xuất dẫn giải; cơ quan, đơn vị thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải hay Cơ quan thi hành án hình sự, Nhà tạm giữ Công an huyện chịu trách nhiệm về việc để bị cáo trốn thoát.
Thứ hai, trường hợp bị cáo vừa phạm tội do Tòa án nhân dân xét xử, vừa phạm tội do Tòa án quân sự xét xử. Tòa án nhân dân đã xét xử trước, án chưa có hiệu lực pháp luật và bị cáo hiện đang bị tạm giam ở Nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam do Công an quản lý. Tòa án quân sự xét xử bị cáo sau, việc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và đưa đi chấp hành án gặp khó khăn, vướng mắc: Cơ quan nào thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam ở nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam Công an cấp huyện? thời hạn trích xuất bị cáo; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi có Nhà tạm giữ đang tạm giam bị cáo; cơ quan điều tra hình sự Khu vực điều tra vụ án đó hay là cơ quan, đơn vị quân đội nơi xảy ra vụ án đảm nhiệm việc trích xuất, dẫn giải bị cáo đi xét xử và chấp hành án? đây là vướng mắc thường gặp, hiện chưa có văn bản hướng dẫn để thực hiện thống nhất.
Ví dụ: Phạm Năng V., phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Cướp tài sản” Tòa án quân sự xét xử sau tuyên phạt 10 năm 6 tháng tù. Trước đó, bị cáo V. bị Tòa án nhân dân xét xử 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt của cả 2 bản án bị cáo V. phải chấp hành là 11 năm 3 tháng tù. Phạm Năng V. bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N., tỉnh T. Tòa án quân sự làm Công văn đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh T. trích xuất, dẫn giải bị cáo V. từ Nhà tạm giữ Công an huyện N., đến địa điểm xét xử là Công ty 732, xét xử xong dẫn giải bị cáo V. về Trại tạm giam Quân sự để đảm bảo thi hành án.
Vấn đề vướng mắc là cơ quan, đơn vị nào thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo: Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện N. nơi có Nhà tạm giữ đang tạm giam bị cáo hay Cơ quan điều tra hình sự Khu vực đã điều tra vụ án thực hiện dẫn giải bị cáo? Thực tiễn, Tòa án quân sự đã vận dụng nhờ Công ty 732 nơi xảy ra vụ án thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo. Vấn đề đặt ra, nếu trên đường dẫn giải bị cáo từ Nhà tạm giữ đến địa điểm xét xử và đưa đi chấp hành án lợi dụng sơ xuất của cán bộ dẫn giải bị cáo trốn thoát thì ai là người chịu trách, bởi theo quy định của pháp luật, Công ty 732 không có chức năng dẫn giải bị cáo.
Thứ ba, trường hợp khi Tòa án quân sự xét xử bị cáo là phạm nhân đang chấp hành án về một tội khác Tòa án nhân dân đã xét xử giam tại Trại giam Công an, vấn đề đặt ra bị cáo bị xử phạt tù giam, xét xử xong, khi bản án của Tòa án quân sự có hiệu lực pháp luật có phải trích xuất, dẫn giải bị cáo để chuyển Trại giam quân sự chấp hành án không? để bị cáo chấp hành 02 bản án tù tại Trại giam của Công an hay Trại giam quân sự.
Thứ tư, trường hợp bị cáo A. phạm tội do Cơ quan điều tra hình sự khu vực Quân khu K điều tra, Viện Kiểm sát quân sự khu vực Quân khu K truy tố, Tòa án quân sự xét xử tuyên phạt bị cáo A 7 năm tù, nhưng bị cáo A đang được gửi tại Trại tạm giam Quân đoàn. Theo quy định Trại tạm giam Quân đoàn chỉ quản lý, cải tạo các phạm nhân có mức án 5 năm tù trở xuống, mức án trên 5 năm tù phải làm thủ tục chuyển trại, về nguyên tắc khi chuyển trại phải ra lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo. Vấn đề đặt ra là Tòa án ra lệnh trích xuất, dẫn giải thì cơ quan, đơn vị nào thực hiện lệnh trích xuất, dẫn giải của Tòa án để đưa phạm nhân chuyển trại. Cơ quan điều tra hình sự hay Trại tạm giam thực hiện? Thực tế Cơ quan điều tra cử lực lượng, phương tiện dẫn giải bị cáo chuyển trại, nhưng lại yêu cầu có cán bộ Tòa án cùng tham gia dẫn giải bị cáo. Pháp luật không quy định Tòa án thực hiện nhiệm vụ dẫn giải, vì vậy Tòa án không đảm nhận việc dẫn giải bị cáo.
Đề xuất, kiến nghị
Qua những vướng mắc Tòa án quân sự gặp phải khi thực hiện trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án, đề nghị cơ quan có thẩm quyền cần sớm có văn bản hướng dẫn, giải quyết những vướng mắc về lực lượng, phương tiện đảm bảo cho việc trích xuất dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án được thuận lợi, tạo sự thống nhất thực hiện giữa Cơ quan thi hành án hình sự, Trại giam, Trại tạm giam trong và ngoài Quân đội.
THẠC SĨ LÊ ĐÌNH NGHĨA
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình
4. media
![]()
5.Italy dỡ bỏ quy định bắt buộc đeo khẩu trang ở ngoài trời
(LSVN) - Ngày 11/02, Italy đã dỡ bỏ quy định bắt buộc đeo khẩu trang ở ngoài trời trong bối cảnh tình hình đại dịch Covid-19 có chiều hướng lắng dịu.
![]()
Người dân đeo khẩu trang phòng dịch Covid-19 tại Rome, Italy. Ảnh: THX/TTXVN.
Theo phóng viên tại Rome, người dân Italy giờ đây chỉ phải đeo khẩu trang ở những khu vực đông người ngoài trời cũng như các địa điểm công cộng trong không gian kín.
Quy định mới này sẽ có hiệu lực cho đến ngày 31/3 khi tình trạng khẩn cấp về dịch Covid-19 tại Italy, cơ chế cho phép các cơ quan chức năng có quyền hạn đặc biệt để thực hiện, sửa đổi hoặc thu hồi các biện pháp phòng chống dịch, dự kiến kết thúc.
Trước đó, Thứ trưởng Y tế Italy Andrea Costa cho biết chính phủ nước này không có ý định gia hạn luật khẩn cấp, được ban hành ngày 31/01/2020 và gia hạn nhiều lần trong 2 năm qua. Việc chấm dứt tình trạng khẩn cấp sẽ mở đường cho việc nới lỏng hệ thống thẻ xanh Covid-19 vốn đang chi phối cuộc sống hằng ngày tại Italy. Theo ông Costa, các quy định về "siêu thẻ xanh" có thể sẽ được nới lỏng dần từ tháng 3 tới, bắt đầu từ các địa điểm công cộng ở ngoài trời.
Hiện Italy đang áp dụng hệ thống thẻ xanh 2 cấp, với thẻ xanh cơ bản được cấp cho những người có kết quả xét nghiệm âm tính với virus SARS-CoV-2 và "siêu thẻ xanh" cấp cho những người đã tiêm vaccine hoặc đã khỏi Covid-19.
Cũng từ ngày 11/02, các câu lạc bộ đêm, vũ trường và phòng nhảy tại Italy được phép mở cửa trở lại sau khi phải đóng cửa ngay trước đêm Giao thừa 31/12/2021. Theo quy định mới, người dân Italy cần phải có "siêu thẻ xanh" để được vào các câu lạc bộ và phải đeo khẩu trang trừ khi ở trên sàn nhảy, trong khi các địa điểm được phép hoạt động với công suất tối đa là 50% trong nhà và 75% ngoài trời.
Chính phủ Italy cũng có kế hoạch tăng dần sức chứa của các sân vận động thể thao từ ngày 01/3 tới, khi lượng khán giả tham dự ngoài trời tối đa được đề xuất tăng lên 75% (hiện tại là 50%) và lên 60% đối với các sân vận động trong nhà (hiện tại là 35%). Chính phủ gần đây đã nới lỏng một số hạn chế đối với các trường học và những người đã tiêm vaccine - bao gồm cả "siêu thẻ xanh" có thời hạn vĩnh viễn cho những người đã tiêm mũi tăng cường.
Theo số liệu mới nhất của Bộ Y tế Italy, trong ngày 10/02, nước này có 75.861 ca mắc mới Covid-19 và 325 ca tử vong. Cho đến nay, hơn 88% dân số Italy trên 12 tuổi đã hoàn thành liều cơ bản vaccine phòng bệnh. Ngoài ra, 35 triệu người đã tiêm mũi tăng cường.
TTXVN
Không chủ quan, lơ là trong phòng dịch
6.Hà Nội không còn vùng cam, vùng đỏ
(LSVN) - Tối 11/02, UBND thành phố Hà Nội có Thông báo đánh giá cấp độ dịch trong phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn. Kết quả cập nhật đến 9h ngày 11/02. Theo đánh giá, thành phố không còn xã, phường, thị trấn nào ở vùng cam và vùng đỏ.
![]()
Hà Nội không còn vùng cam, vùng đỏ.
Theo đánh giá cấp độ dịch quy mô xã, phường, thị trấn (dựa theo Quyết định số 218/QĐ-BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 27/1), trong 579 xã/phường/thị trấn của Hà Nội hiện có 536 đơn vị (chiếm 92,5% tổng số xã/phường/thị trấn) đạt cấp độ 1 - tương ứng với màu xanh (giảm 5 đơn vị so với tuần trước đó).
43 xã, phường đạt cấp độ 2 - màu vàng, nguy cơ trung bình (tăng 14 đơn vị) và không có xã, phường, thị trấn nào đạt cấp độ 3 - màu cam nguy cơ cao và cấp độ 4 - màu đỏ nguy cơ rất cao.
Cũng trong chiều cùng ngày, liên quan đến việc đánh giá cấp độ dịch ở Hà Nội, tại cuộc họp Ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19, ông Nguyễn Văn Phong, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội nhận định: Cách đây 2 tháng, thành phố đã có dự báo về dịp Tết Nguyên đán có thể dịch bệnh sẽ bùng phát đến 5000-7000 ca/ngày. Tuy nhiên với các giải pháp quyết liệt như việc tiêm vaccine xuyên Tết, ứng dụng Công nghệ thông tin vào quản lý và điều trị F0, F1 tại nhà... tình hình dịch được kiểm soát với con số chưa đến 3.000 ca mắc mới mỗi ngày; tỷ lệ bệnh nhân nặng và tử vong thấp.
Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội nhận định, việc thành phố đã chuyển đổi nhận thức, thích ứng với tình hình mới; cho mở cửa lại nhiều hoạt động dịch vụ, văn hóa, thể thao, tiến tới mở cửa tất cả trường học… là một khối lượng công việc rất lớn được đặt ra để đảm bảo an toàn cho Thủ đô và sức khỏe người dân. Từ đó, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội lưu ý, trạng thái thích ứng hiện nay không có nghĩa dịch bệnh đã hết. Việc mở cửa sẽ có tâm lý xã hội chủ quan, lơ là trong người dân và cả hệ thống có chiều hướng gia tăng.
Ông Nguyễn Văn Phong, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đặc biệt yêu cầu các địa phương phải tiếp tục chuẩn bị kỹ càng cho học sinh lớp 1 đến lớp 6 các quận nội thành đến trường; tiếp tục tính toán lộ trình mở cửa lại các trường mầm non, đề xuất việc học bán trú để phục vụ người dân, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng; chuẩn bị chu đáo, đảm bảo an toàn cho gần 1 triệu học sinh sinh viên cao đẳng, đại học, trường nghề quay lại trường học từ 14/02; rà soát, chuẩn bị sẵn để tiêm vaccine cho học sinh sinh viên các tỉnh thành khác quay lại Hà Nội học tập.
DUY ANH
Bình luận những điểm mới của Nghị định 02/2022/NĐ-CP
7. Bổ sung trường hợp dừng thu phí đường bộ từ 31/3/2022
(LSVN) - Ngày 31/12/2021, Bộ Giao thông Vận tải ban hành Thông tư 45/2021/TT-BGTVT quy định về hoạt động trạm thu phí đường bộ. Trong đó, bổ sung trường hợp dừng thu phí đường bộ từ 31/3/2022.
![]()
Bổ sung trường hợp dừng thu phí đường bộ từ 31/3/2022.
Cụ thể, Điều 26 Thông tư 45/2021/TT-BGTVT quy định 08 trường hợp trạm thu phí sử dụng đường bộ bị tạm dừng thu như sau:
- Doanh nghiệp dự án PPP, Đơn vị quản lý thu vi phạm chất lượng bảo trì công trình đường bộ đã được cơ quan có thẩm quyền có văn bản nhắc nhở 02 lần kèm theo thời hạn khắc phục.
- Doanh nghiệp dự án PPP, Đơn vị quản lý thu, Đơn vị vận hành thu, Nhà cung cấp dịch vụ thu để xảy ra các tình huống có nguy cơ mất an toàn giao thông, ùn tắc giao thông kéo dài trên tuyến đường, đã được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu khắc phục 02 lần bằng văn bản kèm theo thời hạn khắc phục nhưng không khắc phục hoặc chậm khắc phục.
- Đơn vị vận hành thu có các hành vi gian lận tiền dịch vụ sử dụng đường bộ hoặc thông đồng gian lận trong hoạt động thu tiền dịch vụ sử dụng đường bộ; Can thiệp vào hệ thống công nghệ thu, hệ thống giám sát, quản lý thu...
- Đơn vị vận hành thu có hành vi lắp đặt thiết bị, phần mềm quản lý, giám sát dữ liệu thu không đúng quy định, đã được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu thực hiện ít nhất 02 lần bằng văn bản kèm theo thời hạn khắc phục.
- Hệ thống công nghệ, thiết bị phục vụ trực tiếp cho việc thu tiền dịch vụ sử dụng đường bộ bị trục trặc, hư hỏng không được khắc phục kịp thời.
- Tạm dừng thu khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp có dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh hoặc phục vụ an ninh, quốc phòng hoặc thực hiện theo chủ trương, chính sách của Nhà nước.
- Tạm dừng thu trong trường hợp Đơn vị quản lý thu, Đơn vị vận hành thu hoặc Nhà cung cấp dịch vụ thu cố tình trì hoãn, không tuân thủ các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Đây là trường hợp mới bổ sung.
- Các trường hợp tạm dừng thu không do lỗi của Đơn vị quản lý thu, Đơn vị vận hành thu, Nhà cung cấp dịch vụ thu được xử lý theo quy định của pháp luật hoặc hợp đồng dịch vụ thu. Đây cũng là trường hợp mới bổ sung.
Trước đây, Thông tư 15/2020/TT-BGTVT chỉ quy định 06 trường hợp trạm thu phí sử dụng bị tạm dừng thu. Tuy nhiên, Điều 26 Thông tư 45/2021 đã bổ sung thêm 02 trường hợp mới.
Thông tư 45/2021/TT-BGTVT có hiệu lực từ ngày 31/03/2022 và thay thế Thông tư 15/2020/TT-BGTVT ngày 22/7/2020.
PHƯƠNG HOA
Quy định mới về hoạt động trạm thu phí đường bộ
8.

