/ Thư viện pháp luật
/ Bổ sung nghĩa vụ của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

Bổ sung nghĩa vụ của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

13/04/2021 04:03 |4 năm trước

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 47/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp. Trong đó, bổ sung nghĩa vụ của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Hiện nay, tại Điều 104 Luật Doanh nghiệp quy định nghĩa vụ của Ban kiểm soát. Theo đó, Ban kiểm soát có nghĩa vụ sau đây:

- Giám sát việc tổ chức thực hiện chiến lược phát triển, kế hoạch kinh doanh;

- Giám sát, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của công ty;

- Giám sát và đánh giá việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thành viên và Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty;

- Giám sát, đánh giá hiệu lực và mức độ tuân thủ quy chế kiểm toán nội bộ, quy chế quản lý và phòng ngừa rủi ro, quy chế báo cáo, quy chế quản trị nội bộ khác của công ty;

- Giám sát tính hợp pháp, tính hệ thống và trung thực trong công tác kế toán, sổ sách kế toán, trong nội dung báo cáo tài chính, các phụ lục và tài liệu liên quan;

- Giám sát hợp đồng, giao dịch của công ty với các bên có liên quan;

- Giám sát thực hiện dự án đầu tư lớn; hợp đồng, giao dịch mua, bán; hợp đồng, giao dịch kinh doanh khác có quy mô lớn; hợp đồng, giao dịch kinh doanh bất thường của công ty;

- Lập và gửi báo cáo đánh giá, kiến nghị về nội dung quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và g khoản này cho cơ quan đại diện chủ sở hữu và Hội đồng thành viên;

- Thực hiện nghĩa vụ khác theo yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu, quy định tại Điều lệ công ty.

Điều 9 Nghị định 47/2021/NĐ-CP đã bổ sung thêm các nghĩa vụ của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Cụ thể, Ban Kiểm soát, Kiểm soát viên tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thực hiện các nghĩa vụ quy định tại Điều 104 Luật Doanh nghiệp và các quy định sau:

- Xây dựng Kế hoạch công tác hằng năm, trình cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt, ban hành trong quý I; thực hiện theo Kế hoạch công tác năm được phê duyệt.

Đối với những trường hợp cần phải kiểm tra, giám sát đột xuất nhằm phát hiện sớm những sai sót của doanh nghiệp, Ban kiểm soát, Kiểm soát viên chủ động thực hiện, đồng thời báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu.

- Giám sát thực hiện các dự án đầu tư lớn có giá trị lớn hơn 30% vốn chủ sở hữu hoặc lớn hơn mức vốn của dự án nhóm B theo phân loại quy định tại Luật Đầu tư công, hợp đồng, giao dịch mua, bán, giao dịch kinh doanh có giá trị lớn hơn 10% vốn chủ sở hữu hoặc theo yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu; giao dịch kinh doanh bất thường của công ty.

Nghị định có hiệu lực từ ngày 01/4/2021.

MINH HIỀN

 

Người đang chấp hành án phạt tù có ly hôn được không?

(LSVN) – Pháp luật hiện hành không hạn chế việc ly hôn với người đang chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, việc giải quyết sẽ rất khó khăn khi một bên đưa yêu cầu đơn phương ly hôn với bên còn lại đang chấp hành án phạt tù

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Điều 51 Luật Hôn nhân và gia định năm 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn. Theo đó, vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Có thể thấy, pháp luật hiện hành không hạn chế việc ly hôn với người đang chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, việc giải quyết sẽ rất khó khăn khi một bên đưa yêu cầu đơn phương ly hôn với bên còn lại đang chấp hành án phạt tù. Vì trong quá trình thực hiện các thủ tục để ly hôn, cơ quan Thi hành án hình sự (trại giam) sẽ không trích xuất để người đang chấp hành án phạt tù tiến hành trực tiếp ly hôn. 

Do đó, khi tiến hành xét xử, Tòa án sẽ phải tiến hành xử ly hôn vắng mặt người đang thụ án tù. Hay nói cách khác, Tòa án không hoãn phiên hòa giải trong trường hợp này. Khi Tòa án triệu tập nhiều lần mà bị đơn vắng mặt, bị đơn sẽ mất quyền lợi được tiến hành hòa giải tại Tòa theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:

Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Như vậy, mặc dù pháp luật không cấm nhưng quyền lợi và nghĩa vụ của người đang chấp hành án phạt tù cũng ít nhiều bị ảnh hưởng theo. 

HỒNG HẠNH

Chính sách đối với người lao động tại doanh nghiệp quốc phòng, an ninh

Admin
LSVN