Đơn thư của bà Ngô Thị Khu cùng con trai là Phạm Đình Úy gửi đến Tạp chí Luật sư Việt Nam.
Từ nội dung đơn thư
Theo nội dung đơn thư, bà Khu cùng chồng là ông Phạm Đình Tung (mất năm 1990) có sử dụng thửa đất số 1139 tờ bản đồ số 05 tại thôn Quý Kim có diện tích 740m2 làm đất ở từ những năm 1972. Sau đó, HTX nông nghiệp Hợp Đức đã giao cho gia đình 08 thước đất tại thửa đất liền kề số 1128 tờ bản đồ số 5 thôn Quý Kim do HTX nông nghiệp Hợp Đức quản lý khoảng 192m2. Tại bản đồ năm 1984 cũng đã thể hiện rõ nội dung thông tin nêu trên.
Khoảng năm 1990, gia đình khai hoang thêm khoảng 10m2, sau đó tạo thành thửa đất số 26 tờ bản đồ 28 thôn Quý Kim, xã Hợp Đức, huyện Kiến Thụy (nay là tổ dân phố Quý Kim I, phường Hợp Đức, quận Đồ Sơn) có diện tích 942m2 đã kê khai, đăng ký và nộp thuế đất thổ cư cho nhà nước. Theo bản đồ địa chính năm 1995 và sổ mục kê năm 1995 thể hiện rõ phần diện tích đất của vợ chồng bà là 942m2 đất thổ cư.
Đầu năm 2005, bà Khu và các thành viên trong gia đình thống nhất cho vợ chồng anh Úy là con trai diện tích 337m2 (thực tế hiện nay là 325m2) đất ở và tài sản gắn liền với đất (gồm 01 căn nhà tạm có diện tích khoảng 15m2 là nhà bếp cũ), các công trình tạm phục vụ đời sống,...).
Năm 2007, bà Khu kê khai và làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được UBND xã Hợp Đức xác nhận thửa đất số 26 tờ bản đồ 28 thôn Quý Kim, xã Hợp Đức, huyện Kiến Thụy (nay là tổ dân phố Quý Kim I, phường Hợp Đức, quận Đồ Sơn) có diện tích 942m2 là đất thổ cư.
Ngày 05/5/2009, UBND quận Đồ Sơn đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 741808 đối với một phần thửa đất số 26 tờ bản đồ 28 tổ dân phố Quý Kim I, phường Hợp Đức, quận Đồ Sơn có diện tích 605,0m2. Phần đất còn lại có diện tích 337m2 vẫn do vợ chồng con trai bà sử dụng, ở từ năm 2005, nhưng chưa làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 12/5/2021, một số người tự xưng là cán bộ Phòng Quản lý đô thị quận Đồ Sơn đến kiểm tra công trình xây dựng, sau khi nghe gia đình trình bày là xây dựng trên đất thổ cư từ lâu và vừa mới cải tạo lại nên họ chỉ chụp ảnh hiện trạng, mà không lập biên bản.
Ngày 02/6/2021, UBND phường Hợp Đức đến lập biên bản vi phạm hành chính đối với gia đình bà, gia đình bà đã xuất trình giấy xác nhận ngày 06/12/2007 của ông Phạm Hồng Quân, Chủ tịch UBND xã Hợp Đức và khẳng định đất đang sử dụng là đất thổ cư, nhưng tổ công tác không công nhận giá trị của văn bản này và cũng không lập biên bản vi phạm hành chính, mà chỉ lập biên bản kiểm tra. Nhưng vì nội dung biên bản kiểm tra không khách quan, không ghi ý kiến của gia đình vào biên bản, nên gia đình không ký vào biên bản kiểm tra này.
Tuy không lập biên bản vi phạm hành chính, nhưng ngày 02/12/2022, con trai bà nhận được quyết định buộc thực hiện biệp pháp khắc phục hậu quả số 1544. Theo đó, Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn căn cứ Biên bản kiểm tra số 03/BBKT ngày 02/6/2021 của UBND phường Hợp Đức; Biên bản vi phạm hành chính số 01/BB-VPHC ngày 02/6/2021 của UBND phường Hợp Đức; Biên bản xác minh tình tiết vụ việc vi phạm hành chính số 01/BB-XM ngày 03/6/2021 của UBND phường Hợp Đức; Biên bản kiểm tra số 03/BBKT ngày 06/7/2022 của UBND phường Hợp Đức và quyết định buộc con trai bà Khu (Phạm Đình Úy) khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm.
Ngày 20/12/2022, con trai bà đã khiếu nại lần đầu và yêu cầu Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn ban hành quyết định hủy bỏ “Quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả” số 1544/QĐ/KPHQ ngày 22/11/2022 của Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn.
Ngày 06/3/2023, gia đình nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 178/QĐ-UBND ngày 28/02/2023 của Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn. Theo đó, Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn quyết định giữ nguyên Quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả số 1544/QĐ/KPHQ ngày 22/11/2022 của Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn.
Ngày 24/3/2023, Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn ban hành Quyết định số 282/QĐ-SĐBS sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1544/QĐ-KPHQ ngày 22/11/2022 của UBND quận Đồ Sơn.
Sau đó, gia đình tiếp tục có đơn gửi ông Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn với nội dung không đồng ý Quyết định số 282/QĐ-SĐBS do ban hành trái pháp luật. Tuy nhiên, đến nay gia đình chưa nhận được trả lời.
Trao đổi về vấn đề trên, ông Lưu Quốc Chính, Chủ tịch UBND phường Hợp Đức cho rằng: “Phần đất gia đình bà Khu, ông Úy dựng nhà mái tôn là đất trồng cây lâu năm, chưa chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Sổ mục kê, bản đồ địa chính qua các thời kì có sự biến động, còn hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang lưu giữ Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Đồ Sơn, chúng tôi đang phối hợp lấy. Ngoài đất, thì việc xây dựng không xin phép là sai. Các trường hợp xây dựng trên đất nông nghiệp khác chúng tôi đang xử lý.”.
Hiện trường khu đất bị ban hành các quyết định xử phạt và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Góc nhìn của Luật sư về vụ việc
Liên quan đến nội dung nêu trên, Luật sư Vũ Quang Bá, Công ty Luật TNHH AB & Partners, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết: “Sau khi nghiên cứu hồ sơ, tài liệu trong vụ việc này, chúng tôi cho rằng các Quyết định nêu trên ban hành chưa đảm bảo cơ sở pháp lý theo quy định của pháp luật”.
Về Quyết định 1544, Luật sư cho rằng không có căn cứ xác định ông Úy có hành vi vi phạm. Theo đó, tại Quyết định 1544, ông Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn căn cứ vào các Biên bản kiểm tra số 03/BBKT ngày 02/6/2021; Biên bản vi phạm hành chính số 01/BB-VPHC ngày 02/6/2021; Biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính số 01/BB-XM ngày 03/6/2021 và biên bản kiểm tra ngày 06/7/2022.
Tuy nhiên, theo các nội dung biên bản nêu trên thì UBND phường Hợp Đức đều lập biên bản đối với “vi phạm xây dựng tại thửa đất số 26 tờ bản đồ số 28 - bản đồ năm 1995”. Nhưng tại Quyết định số 1544, Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn lại căn cứ theo thửa đất 230 tờ bản đồ số 23 (bản đồ năm 2013) để xác định ông Úy có hành vi vi phạm khi tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Tại bản đồ năm 1995 và sổ mục kê năm 1995, thửa đất số 26, tờ bản đồ số 28 có diện tích 942m2 thuộc loại đất thổ cư (T). Còn theo bản đồ năm 2013, thửa đất 230, tờ bản đồ 23 có diện tích 292,7m2 là đất trồng cây lâu năm (BKH).
Như vậy, nếu UBND phường Hợp Đức lập biên bản mà căn cứ theo bản đồ năm 1995 thì rõ ràng hộ ông Úy không có vi phạm, bởi theo bản đồ và sổ mục kê năm 1995 thì phần diện tích mà ông Úy đã xây dựng là đất thổ cư.
Việc chủ tịch UBND quận Đồ Sơn ban hành Quyết định 1544 căn cứ theo các biên bản của UBND phường Hợp Đức, nhưng lại không căn cứ theo nội dung ghi nhận trong các biên bản là không phù hợp, không đúng với nội dung các biên bản được lập mà chủ tịch UBND quận Đồ Sơn lấy làm căn cứ ban hành quyết định 1544.
Về việc xác định loại đất đối với diện tích 325m2, theo Luật sư Vũ Quang Bá, tại khoản 3 Điều 1 Quyết định 1544 có nội dung kết luận rằng: “Đối tượng vi phạm hành chính đã chuyển đất trồng cây lâu năm sang đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị để đổ sân bê tông diện tích 325m2... tại thửa đất số 230, tờ bản đồ số 20 (theo bản đồ đo vẽ năm 2013), tổ dân phố Quý Kim I, phường Hợp Đức”.
Luật sư Bá cho rằng, Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn căn cứ theo bản đồ hiện trạng đo vẽ năm 2013 là chưa đảm bảo đúng các quy định của pháp luật (bản đồ này không phải là cơ sở chứng minh diện tích đất này là đất trồng cây lâu năm). Theo đó, tài liệu có trong hồ sơ vụ việc thể hiện diện tích 325m2 hiện không nằm trong một thửa đất cụ thể nào? Bản đồ năm 2013 không có bất kỳ thửa đất nào có diện tích 325m2 loại đất BHK. Ông Úy cũng không tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng thửa đất nào có diện tích như trên. Cũng không có tài liệu nào có giá trị pháp lý chứng minh diện tích đất này là đất trồng cây lâu năm?
"Theo bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2013 mà ông Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn căn cứ, thì thửa số 230 tờ bản đồ số 20, chỉ có diện tích 292,7m2, loại đất BHK (đất trồng cây hàng năm khác). Tuy nhiên, ông chủ tịch UBND quận Đồ Sơn lại yêu cầu ông Úy khắc phục vi phạm trên phần diện tích 325m2 nhưng thực tế thửa số 230 tờ bản đồ 20 chỉ có diện tích 297,7m2. Vậy, phần diện tích 27,3m2 ông Úy chuyển đổi thì ở thửa đất nào? Trong khi đó, Chủ tịch UBND quận Đồ Sơn chỉ xác định, ông Úy tự chuyển đổi phần diện tích của thửa số 230 tờ bản đồ 20 có diện tích 292,7m2. Như vậy, chúng tôi thấy rằng, Quyết định 1544 kết luận toàn bộ diện tích 325m2 là đất trồng cây lâu năm là không đảm bảo có cơ sở pháp lý", Luật sư Bá nói.
Việc xác minh nguồn gốc đất
Cũng theo Luật sư Vũ Quang Bá, đối với Quyết định 178 về việc xác minh nguồn gốc đất thì theo bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2013, thửa đất gia đình bà Khu, ông Úy đang sử dụng gồm thửa số 35, tờ bản đồ 79, diện tích 629,6m2, loại đất ODT (đất ở đô thị), chủ sử dụng là bà Ngô Thị Khu và thửa số 230, tờ bản đồ số 20, diện tích 292,7m2, loại đất BHK (đất trồng cây hàng năm khác).
Thửa đất trên từng được bà Khu đưa ra chính quyền xác nhận để vay vốn ngân hàng.
Tại khoản 1 phần II kết quả xác minh về nguồn gốc thửa đất số 230, tờ bản đồ số 20, tổ dân phố Quý Kim I, phường Hợp Đức có nêu rõ: Theo bản đồ và sổ mục kê năm 1984, thửa đất trên là một phần thửa số 1128, tờ bản đồ số 05, diện tích 485m2, chủ sử dụng HTX nông nghiệp Hợp Đức, loại đất 02 lúa và một phần thửa đất 1139, tờ bản đồ số 05, diện tích 740m2 do ông Phạm Đình Tung (bố để ông Phạm Đình Úy, đã chết) sử dụng, loại đất thổ cư (ký hiệu T).
Theo sổ mục kê tờ bản đồ số 05 lập năm 1984, tại trang số 150, thửa đất trên là một phần thửa số 1139, diện tích 740m2, loại đất thổ cư (ký hiệu T/55), chủ sử dụng Phạm Đình Tung; tại phần ghi chú ghi: HTX còn 11 thước (264m2).
Theo hồ sơ địa chính từ năm 1984 thửa số thửa đất số 230, tờ bản đồ số 20, diện tích 292,7m2 đã bao gồm một phần đất thửa số 1139, tờ bản đồ số 05, diện tích 740m2, loại đất thổ cư và một phần thửa số 1128, tờ bản đồ số 05, diện tích 485m2, loại đất 2 lúa.
Đến năm 1995, tổng diện tích theo bản đồ và sổ mục kê năm 1995 là 942m2 thuộc thửa đất số 26, tờ bản đồ số 28, được chuyển đổi thành loại đất thổ cư. Năm 2013, theo bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2013, tổng diện tích là 922,3m2. Đến nay, hiện trạng đo vẽ tại thời điểm xác minh thửa đất có tổng diện tích là 949,2m2.
Như vậy, qua quá trình sử dụng đất của gia đình bà Khu, ông Úy thì tổng diện tích có biến động nhưng không đáng kể (biến động này có thể do đo đạc). Theo nguồn gốc đất sử dụng trước năm 1984 thì diện tích đất của gia đình ông bà Khu, ông Úy đã có 740m2 đất thổ cư do ông Phạm Đình Tung để lại.
Thửa đất của bà Khu trích sao tại sổ đăng kí đất đai năm 1984.
Trong quá trình sử dụng đất, gia đình không chuyển nhượng, mua bán, tặng cho (người ngoài), chuyển đổi, chuyển mục đích sử dụng đất,... Đến năm 1995 đã hợp hai thửa thành một thửa diện tích 942m2 đất thổ cư. Năm 2005, bà Khu cùng các con đã họp gia đình và viết giấy tặng cho anh Phạm Đình Úy diện tích 337m2, mục đích sử dụng là đất ở (có chữ ký của tất cả các thành viên trong gia đình). Với diện tích đất còn lại 605m2, UBND quận Đồ Sơn đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Khu, diện tích 605m2, đất ở vào năm 2009.
Theo bản đồ, sổ mục kê năm 1995 thì toàn bộ diện tích của nhà bà Khu, ông Úy là diện tích đất ở. Bên cạnh đó, năm 2007 UBND xã Hợp Đức (nay là UBND phường Hợp Đức) còn xác nhận hộ bà Khu có diện tích 942m2 đất thổ cư.
Như vậy, căn cứ vào các tài liệu, hồ sơ là bản đồ, sổ mục kê cũng như xác nhận của UBND xã Hợp Đức thì có đủ cơ sở xác định thửa số 26 tờ bản đồ số 28 có diện tích 942m2 loại đất thổ cư.
PV
Cảnh báo thủ đoạn lừa đảo dẫn dụ truy cập vào đường link, trang web lạ trên mạng xã hội