Ảnh minh họa.
Cụ thể, Nghị định 59/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh là chưa phù hợp về mặt thẩm quyền nếu chiểu theo quy định tại Hiến pháp 2013 và Bộ Luật dân sự 2015. Mặc dù, Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại 2005 nhưng Luật Thương mại 2005 ban hành trước Hiến pháp 2013 và Bộ Luật dân sự 2015, trong khi, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 lại quy định thẩm quyền quy định về hạn chế quyền của công dân sẽ áp dụng theo quy định tại Hiến pháp 2013, Bộ Luật dân sự 2015.
Thêm nữa, Nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện mà điều kiện để được kinh doanh các loại hàng hóa trong danh mục này được áp dụng trên “chủ thể kinh doanh” tức là các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ chứ không phải là “điều kiện của hàng hóa, dịch vụ”.
Trong khi đó, Luật Đầu tư 2020 lại quy định Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện; trong đó, xác định điều kiện để được kinh doanh các ngành nghề trong Danh mục được áp dụng trên “chủ thể kinh doanh”. Như vậy, tính chất của hai loại Danh mục của Nghị định 59/2006/NĐ-CP và Luật Đầu tư 2020 là giống nhau, đều ràng buộc điều kiện đối với chủ thể kinh doanh. Theo Luật Đầu tư 2020, trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì sẽ thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư. Như vậy, các quy định về ngành, nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện sẽ áp dụng theo quy định tại Luật Đầu tư 2020 chứ không phải Nghị định 59/2006/NĐ-CP.
Mặt khác, nếu xem xét các loại hàng hóa, dịch vụ trong danh mục của Nghị định 59/2006/NĐ-CP nhận thấy, về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện lại khác với danh mục quy định tại Luật Đầu tư 2020. Thậm chí, một số hàng hóa, dịch vụ quy định tại Nghị định còn không có hoặc đã sửa đổi trong Luật Đầu tư. Việc tồn tại danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP đưa đến những rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp. Vì nghị định vẫn đang có hiệu lực. Nếu kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ không có trong danh mục của nghị định nhưng lại có trong danh mục của Luật Đầu tư thì doanh nghiệp sẽ không phải đáp ứng điều kiện gì nếu theo quy định tại nghị định, nhưng lại phải đáp ứng điều kiện kinh doanh nếu theo quy định tại Luật Đầu tư và ngược lại.
Các hàng hóa, dịch vụ được liệt kê trong danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP được dẫn chiếu tới các văn bản quy định chi tiết, rất nhiều văn bản này đã hết hiệu lực. Tên của hàng hóa, dịch vụ trong danh mục này cùng với cơ chế quản lý cũng đã thay đổi theo quy định hiện hành, như các dịch vụ liên quan đến hàng hải gồm: kiểm đếm hàng hóa; dịch vụ vệ sinh tàu biển; dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển; hay như pháp luật về hàng hải không còn quy định chi tiết về các dịch vụ này nữa. Vì vậy, nếu áp dụng theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP doanh nghiệp sẽ không biết áp dụng theo quy định nào, tại văn bản nào. Luật Đầu tư 2020 còn quy định tên ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong các luật khác phải thống nhất nên việc thiết kế tên của hàng hóa, dịch vụ có tính chất tương tự như là ngành nghề kinh doanh tại danh mục là chưa phù hợp với nguyên tắc về tên gọi theo quy định tại Luật Đầu tư 2020.
Qua nghiên cứu, VCCI cũng nhận thấy rằng, không rõ Nghị định 59/2006/NĐ-CP có tập hợp tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện không? Danh mục trong nghị định này có tương tự như tính chất của danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện quy định tại Luật Đầu tư 2020 không? Đây là những vấn đề chưa được làm rõ. Chính vì vậy, các hàng hóa, dịch vụ trong danh mục quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP chưa thể hiện rõ vai trò, ý nghĩa hay mục tiêu chính sách. Mặt khác, việc ban hành danh mục tập hợp tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện trong một văn bản cấp nghị định, sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát các văn bản cùng cấp hay các văn bản cấp luật ban hành thêm các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện.
Từ những phân tích trên, theo VCCI, việc bãi bỏ Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện là có cơ sở và phù hợp.
PV