Trong đó, 16 dự án do Bộ Giao thông Vận tải làm cơ quan chủ quản, 12 dự án do địa phương làm cơ quan chủ quản.
Các dự án này được chia thành 3 nhóm:
- Nhóm 1 gồm 15 dự án với chiều dài 771km cơ bản không còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Các dự án gồm 10 dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 từ Hà Tĩnh đến Khánh Hòa; Cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi; Dự án thành phần 3 cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; Cao tốc Bến Lức - Long Thành (không bao gồm 3km phạm vi cầu Phước Khánh); Dự án Cao Lãnh - Lộ Tẻ; Dự án thành phần 7 thuộc Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh.
- Nhóm 2 gồm 8 dự án với tổng chiều dài 281km cần phải tập trung tháo gỡ các khó khăn về giải phóng mặt bằng, nguồn vật liệu xây dựng, tổ chức thi công "3 ca, 4 kíp". Các dự án gồm Cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang; Hậu Giang - Cà Mau; Hòa Liên - Túy Loan; Dự án thành phần 1 Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh; Dự án thành phần 1, 3 cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột; Cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang qua Hà Giang; Dự án thành phần 1 cao tốc Cao Lãnh - An Hữu.
- Nhóm 3 gồm 5 dự án và đoạn qua cầu Phước Khánh thuộc dự án Bến Lức - Long Thành với tổng chiều dài 136 km. Cụ thể là Gói thầu J3-1 khu vực cầu Phước Khánh cao tốc Bến Lức - Long Thành và các Dự án thành phần 1, 2 cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; Dự án thành phần 3, 5 Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh; Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang qua Tuyên Quang; Dự án Cao Lãnh - An Hữu.
Theo đại diện Cục Quản lý đầu tư xây dựng, trong các dự án thuộc nhóm 3, việc triển khai Dự án Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh và Biên Hòa - Vũng Tàu của tỉnh Đồng Nai; Dự án Tuyên Quang - Hà Giang của tỉnh Tuyên Quang; và Dự án Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh của tỉnh Bình Dương còn chậm. Về vật liệu xây dựng, các dự án thành phần thuộc Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh khó khăn do phụ thuộc vào các nguồn khai thác thương mại; Dự án Biên Hòa - Vũng Tàu tiến độ triển khai thủ tục cấp mỏ của tỉnh Đồng Nai chậm.