Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp

27/11/2017 19:06 | 6 năm trước

LSVNO - Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật SHTT) không định nghĩa thế nào là “giới hạn quyền sở hữu công nghiệp”.

LSVNO - Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật SHTT) không định nghĩa thế nào là “giới hạn quyền sở hữu công nghiệp”.

Tuy nhiên, theo quy định của Luật này có thể hiểu một cách chung nhất về giới hạn quyền sở hữu công nghiệp như sau:

- Giới hạn là một phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua.

- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Ảnh minh họa.

Về nguyên tắc, các quyền lợi của chủ sở hữu đối với sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ tuyệt đối trong thời gian còn hiệu lực bảo hộ. Chủ sở hữu có độc quyền trong việc khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, pháp luật lại quy định hạn chế các quyền nêu trên của chủ sở hữu xuất phát từ những lý do nhất định. Việc hạn chế quyền này có thể tạo ra một số hệ quả như sau:

        - Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp vẫn thực hiện các quyền của mình nhưng lại không được hoàn toàn tự do ý chí, họ phải thực hiện quyền đó theo mệnh lệnh bắt buộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

       - Các chủ thể trong những trường hợp nhất định pháp luật cho phép được tự ý sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc quyền của người khác mà không cần phải xin phép hay trả thù lao.

Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp về phạm vi

Văn bằng bảo hộ được Nhà nước Việt Nam cấp theo quy định Luật SHTT Việt Nam thì chỉ có giá trị trên lãnh thổ Việt Nam, như vậy phạm vi quyền sở hữu công nghiệp đã bị giới hạn trong lãnh thổ quốc gia, đồng nghĩa với việc quyền sở hữu công nghiệp không được bảo vệ ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc giới hạn quyền sở hữu công nghiệp còn xảy ra trong phạm vi lĩnh vực, nội dung được bảo hộ:

Các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ theo phạm vi bảo hộ được quy định tùy vào đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 16 Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp.

Thứ nhất, đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý thì phạm vi bảo hộ được ghi nhận trong văn bằng bảo hộ và phải đáp ứng điều kiện quy định cụ thể trong Luật SHTT: Phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp phải nêu rõ các đặc điểm tạo dáng cần được bảo hộ, bao gồm các đặc điểm mới, khác biệt với các kiểu dáng công nghiệp tương tự đã biết (khoản 3 Điều 103); Phạm vi bảo hộ sáng chế phải được thể hiện dưới dạng tập hợp các dấu hiệu kỹ thuật cần và đủ để xác định phạm vi quyền đối với sáng chế và phải phù hợp với phần mô tả sáng chế và hình vẽ (khoản 3 Điều 102).

Thứ hai, phạm vi bảo hộ tên thương mại, gồm tên thương mại, lĩnh vực kinh doanh và lãnh thổ kinh doanh trong đó tên thương mại được chủ thể mang tên thương mại sử dụng một cách hợp pháp. Việc đăng ký tên gọi của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thủ tục kinh doanh không được coi là sử dụng tên gọi đó mà chỉ là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi đó được coi là hợp pháp.

Thứ ba, phạm vi bảo hộ bí mật kinh doanh, gồm tập hợp các thông tin tạo thành bí mật kinh doanh, được sắp xếp theo một trật tự chính xác và đầy đủ đến mức có thể khai thác được. Tại Việt Nam, bí mật kinh doanh là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ theo Bộ luật Dân sự 2015. Bí mật kinh doanh là “thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh” (khoản 23 Điều 4 Luật SHTT). Tuy nhiên, không phải bất cứ thông tin bí mật nào cũng được bảo hộ. Điều 85 Luật SHTT đưa ra danh mục các loại thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh, bao gồm: bí mật về nhân thân, bí mật về quản lý nhà nước, bí mật về quốc phòng-an ninh, thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.

Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp về thời hạn

Khác với tài sản hữu hình khác, các đối tượng sở hữu công nghiệp thường được bảo hộ trong khoảng thời gian xác định. Các đối tượng được bảo hộ theo thời hạn là các đối tượng xác định được tác giả. Việc quy định thời hạn bảo hộ là cần thiết, có thể chia thời hạn bảo hộ thành 3 loại:

Thời hạn bảo hộ được xác định và không được gia hạn:

- Loại thời hạn này được áp dụng với sáng chế là 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ.

- Giải pháp hữu ích là 10 năm kể từ ngày nộp đơn.

- Thiết kế bố trí mạch tích hợp là 10 năm kể từ ngày nộp đơn hoặc kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng ký, người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới, hoặc 15 năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.

Thời hạn bảo hộ được xác định và có thể được gia hạn:

- Loại thời hạn này được áp dụng với nhãn hiệu là 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ, có thể gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm;

- Đối với kiểu dáng công nghiệp là 5 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể gia hạn 2 lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm.

Thời hạn bảo hộ không xác định thời hạn:

Loại thời hạn này được áp dụng đối với tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh cho đến khi nào còn đáp ứng được điều kiện bảo hộ.

Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp bởi lợi ích công cộng

Bộ, cơ quan ngang bộ có quyền nhân danh Nhà nước sử dụng hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng sáng chế thuộc lĩnh vực quản lý của mình nhằm mục đích công cộng, phi thương mại, phục vụ quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân và đáp ứng các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế hoặc người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền.

Quyền này được xác định trên cơ sở yếu tố chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải phù hợp với các điều kiện sau đây:

- Quyền sử dụng được chuyển giao thuộc dạng không độc quyền;

- Người được chuyển giao quyền sử dụng không được chuyển nhượng quyền đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với cơ sở kinh doanh của mình và không được chuyển giao quyền sử dụng thứ cấp cho người khác. Người được chuyển giao quyền sử dụng phải trả cho người nắm độc quyền sử dụng sáng chế một khoản tiền đền bù thỏa đáng tùy thuộc vào giá trị kinh tế của quyền sử dụng đó trong từng trường hợp cụ thể phù hợp với khung giá đền bù do Chính phủ quy định.

Căn cứ bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế

- Việc sử dụng sáng chế nhằm mục đích công cộng, phi thương mại, phục vụ quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội.

- Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế quy định tại khoản 1 Điều 136 và khoản 5 Điều 142 của Luật SHTT sau khi kết thúc bốn năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký sáng chế và kết thúc ba năm kể từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế.

- Người có nhu cầu sử dụng sáng chế không đạt được thỏa thuận với người nắm độc quyền sử dụng sáng chế về việc ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế mặc dù trong một thời gian hợp lý đã cố gắng thương lượng với mức giá và các điều kiện thương mại thỏa đáng.

Tuy nhiên, thế nào là thỏa đáng, thế nào là thời gian hợp lý thì không có quy định cụ thể. Thực tế, rất khó có thể bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng trong trường hợp này. Việc chứng minh thời gian hợp lý, mức giá và các điều kiện thương mại thỏa đáng là khó khăn. Ở Việt Nam cũng chưa có thông lệ hay quy tắc xử sự chung liên quan đến việc xác định tính hợp lý và thỏa đáng.

- Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.

Căn cứ chấm dứt việc chuyển giao bắt buộc

Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế có quyền yêu cầu chấm dứt quyền sử dụng khi căn cứ bắt buộc chuyển giao không còn tồn tại và không có khả năng tái xuất hiện với điều kiện việc chấm dứt quyền sử dụng đó không gây thiệt hại cho người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế.

Pháp luật quy định giới hạn quyền sở hữu công nghiệp nhưng việc chuyển giao quyền sử dụng bắt buộc không phải là vĩnh viễn. Tuy nhiên, xác định thiệt hại ở đây như thế nào, thế nào thì được coi là chấm dứt quyền sử dụng gây thiệt hại cho người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế vẫn chưa có quy định cụ thể.

Giới hạn bởi quyền và lợi ích chính đáng của người khác

Theo quy định của Luật SHTT, trường hợp trước ngày đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được công bố mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp.

Người có quyền sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không được phép chuyển giao quyền đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc chuyển giao cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Người có quyền sử dụng trước không được mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng nếu không được chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp cho phép.

Giới hạn bởi các nghĩa vụ phải thực hiện Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.

Chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Vấn đề này được quy định tại Điều 135 Luật SHTT. Theo tác giả, quy định trên không nên được coi như là một giới hạn của quyền sở hữu công nghiệp. Đây là một nghĩa vụ của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí. Quy định này có phần hơi gượng ép khi đưa vào phần giới hạn quyền sở hữu công nghiệp.

Mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu phải trả cho tác giả được quy định như sau: 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; 15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.

Vấn đề đặt ra ở đây, “số tiền làm lợi” được hiểu như thế nào? Có thể hiểu, số tiền làm lợi là số tiền tiết kiệm được so với việc áp dụng sáng chế khác cùng loại hoặc số tiền lợi nhuận tăng thêm so với việc áp dụng sáng chế khác cùng loại. Số tiền làm lợi có được tính nhiều lần hay chỉ tính một lần? Pháp luật chưa có quy định cụ thể về cách hiểu đối với “số tiền làm lợi” sẽ gây khó khăn cho hoạt động thực thi pháp luật về sở hữu công nghiệp.

Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được nhiều tác giả tạo ra, mức thù lao là mức dành cho tất cả các đồng tác giả; các đồng tác giả tự thỏa thuận việc phân chia số tiền thù lao do chủ sở hữu chi trả.

Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tồn tại trong suốt thời hạn bảo hộ của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí. Như vậy, nghĩa vụ này gắn liền với thời hạn bảo hộ. Điều này có đồng nghĩa với việc khi hết thời hạn bảo hộ thì tác giả không được nhận thù lao nữa?

Điều 135 Luật SHTT chỉ quy định nghĩa vụ mà chưa làm nổi bật được “tính chất giới hạn” quyền sở hữu công nghiệp. Theo đó, tên điều luật nên được sửa lại thành “Vi phạm nghĩa vụ về trả thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí” và quy định theo hướng, nếu trong thời hạn bảo hộ mà vi phạm các nghĩa vụ này thì sẽ bị hạn chế quyền sở hữu ở một mức độ nhất định.

Nghĩa vụ sử dụng sáng chế, nhãn hiệu

- Chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc áp dụng quy trình được bảo hộ để đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội. Khi có các nhu cầu quy định tại khoản này mà chủ sở hữu sáng chế không thực hiện nghĩa vụ đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác mà không cần được phép của chủ sở hữu sáng chế.

Quy định này nên đưa vào trường hợp chuyển giao bắt buộc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi lẽ, căn cứ áp dụng của trường hợp này về cơ bản là giống với căn cứ để cơ quan nhà nhước ra quyết định chuyển giao bắt buộc. Việc thiết kế vị trí các điều khoản liên quan đến vấn đề này có vẻ như chưa được hợp lý và chưa thật sự khoa học.

- Trong trường hợp các nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội được đáp ứng bởi sản phẩm nhập khẩu, sản phẩm do bên nhận chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng sản xuất thì người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không phải thực hiện nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc áp dụng quy trình được bảo hộ.

- Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu đó. Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng thì sẽ chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ, quyền sở hữu nhãn hiệu đó chấm dứt hiệu lực, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực.

Nhưng hiểu thế nào là sử dụng liên tục? Sử dụng liên tục theo năm hay là theo chu kỳ sản xuất sản phẩm. Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.

Cũng với quan điểm tương tự, nếu diễn đạt quy định này như trong Luật SHTT thì đây chỉ nên được coi là quy định về nghĩa vụ của chủ sở hữu sáng chế, nhãn hiệu hoặc người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, nhãn hiệu như quy định tại khoản 1 Điều 124 Luật SHTT. Rõ ràng nó không mang tính chất giới hạn quyền sở hữu công nghiệp. Có thể việc không thực hiện quy định này sẽ chấm dứt sự bảo hộ nhưng nó cũng đơn giản là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của chủ sở hữu và cũng là một căn cứ chấm dứt bảo hộ. Nếu quy định như vậy thì mọi căn cứ chấm dứt bảo hộ đều là giới hạn quyền sở hữu công nghiệp. Điều này không hợp lý cho lắm, bởi vì “giới hạn” khác với “chấm dứt”.

Nghĩa vụ cho phép sử dụng sáng chế cơ bản nhằm sử dụng sáng chế phụ thuộc

Điều 137 Luật SHTT quy định: Sáng chế phụ thuộc là sáng chế được tạo ra trên cơ sở một sáng chế khác (gọi là sáng chế cơ bản) và chỉ có thể sử dụng được với điều kiện phải sử dụng sáng chế cơ bản. Trong trường hợp chứng minh được sáng chế phụ thuộc tạo ra một bước tiến quan trọng về kỹ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý nghĩa kinh tế lớn, chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc có quyền yêu cầu chủ sở hữu sáng chế cơ bản chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cơ bản với giá cả và điều kiện thương mại hợp lý.

Theo quy định trên, không phải chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc nào cũng có quyền yêu cầu chủ sở hữu sáng chế cơ bản chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cơ bản, mà chỉ trong trường hợp sáng chế phụ thuộc tạo ra một bước tiến quan trọng về kỹ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý nghĩa kinh tế lớn.

Như vậy, về mặt kỹ thuật phải có bước tiến lớn. Nhưng thế nào là bước tiến lớn thì pháp luật không quy định rõ. Do đó, có thể áp dụng tập quán quốc tế hoặc theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan.

Có ý nghĩa kinh tế lớn ở đây được hiểu là có tác động đến lợi ích chung của toàn xã hội, là nhu cầu thiết yếu của xã hội, chứ không phải sáng chế nào cứ đem lại lợi nhuận lớn là áp dụng quy định này. Lợi ích là lợi ích của toàn xã hội chứ không phải lợi ích riêng của tổ chức, hay bất kỳ cá nhân nào. Chính phủ cũng nên có các quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng.

Cũng theo Điều 137 Luật SHTT, trong trường hợp chủ sở hữu sáng chế cơ bản không đáp ứng yêu cầu của chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc mà không có lý do chính đáng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế đó cho chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc mà không cần được phép của chủ sở hữu sáng chế cơ bản. Trong chừng mực nào đó, trường hợp này cũng giống nhau về bản chất với trường hợp chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ngoài ra, sử dụng sáng chế cơ bản phải nhằm sử dụng sáng chế phụ thuộc. Nếu mục đích không phải là sử dụng sáng chế phụ thuộc thì chủ sở hữu sáng chế cơ bản không có nghĩa vụ phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cơ bản.

Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế cơ bản cũng được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế phụ thuộc với những điều kiện hợp lý.

Vấn đề ở đây là tính chất không bắt buộc ở chiều ngược lại. Người sở hữu sáng chế phụ thuộc không bắt buộc phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế phụ thuộc cho người sở hữu sáng chế cơ bản. Cơ quan nhà nước sẽ không thể ra quyết định bắt buộc chuyển giao trong trường hợp này.

Điều kiện hợp lý là gì? Thế nào là điều kiện hợp lý? Điều kiện hợp lý tức là điều kiện về giả cả chuyển nhượng, phạm vi về không gian và thời gian áp dụng sáng chế và các lợi ích khác đối với chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc. Các điều kiện này phải được người sở hữu sáng chế phụ thuộc chấp nhận hay không, hay là chỉ cần thỏa mãn giá cả thị trường?

 

LS Phạm Văn Tuấn