/ Dọc đường tố tụng
/ Góc nhìn Luật sư liên quan đến bằng chứng kết tội trong vụ án vi phạm quy định về khai thác tài nguyên tại Mỏ than Minh Tiến

Góc nhìn Luật sư liên quan đến bằng chứng kết tội trong vụ án vi phạm quy định về khai thác tài nguyên tại Mỏ than Minh Tiến

11/12/2024 10:48 |4 tháng trước

(LSVN) - Tại phiên tòa phúc thẩm do Tòa án nhân dân (TAND) Cấp cao tại Hà Nội đưa ra xét xử từ ngày 05 - 07/12/2024, các Luật sư bào chữa đã đưa ra các quan điểm, phân tích về trách nhiệm của các bị cáo, cho rằng chưa đủ căn cứ để buộc tội, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét trả hồ sơ để điều tra bổ sung,...

13 bị cáo kêu oan

Sáng ngày 05/12/2024, tại Trụ sở TAND tỉnh Thái Nguyên, TAND Cấp cao tại Hà Nội mở phiên xét xử phúc thẩm, xét kháng cáo của 13 bị cáo trong vụ khai thác trái phép hơn 3,1 triệu tấn than và khoáng sản đi kèm tại Mỏ than Minh Tiến (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên).

Trước đó, tại Bản án sơ thẩm số 67/2023/HS-ST ngày 27/10/2023, HĐXX TAND tỉnh Thái Nguyên đã tuyên phạt bị cáo Châu Thị Mỹ Linh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Yên Phước và bị cáo Ngụy Quang Thuyên lần lượt 19 năm tù và 18 năm tù về 2 tội danh “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” và “Mua bán trái phép vật liệu nổ”.

Bị cáo Nguyễn Thanh Tuấn, cựu Giám đốc và Nguyễn Thế Giang, cựu Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Thái Nguyên bị tuyên phạt lần lượt 36 tháng tù và 42 tháng tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

Một số bị cáo còn lại bị tuyên phạt từ 9 tháng tù, cho hưởng án treo, đến 5 năm 6 tháng tù giam.

Trong số 33 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm, có 13 bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan, xin giảm án, được TAND Cấp cao tại Hà Nội thụ lý hồ sơ và quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Mỏ than Minh Tiến nằm trên địa bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Mỏ than Minh Tiến nằm trên địa bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Về cáo buộc mua bán trái phép vật liệu nổ

Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư (LS) Ngô Thị Thu Hằng cùng LS Trần Hồng Phúc thuộc Công ty luật Trần Vũ, Đoàn LS TP. Hà Nội bào chữa cho các bị cáo Châu Thị Mỹ Linh và Ngụy Quang Thuyên cho rằng, điều tra ở cấp sơ thẩm chưa đầy đủ.

Theo LS, cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác minh, thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ là dữ liệu điện tử. Cáo trạng và Bản án sơ thẩm đều xác định “Số liệu vật liệu nổ đã bán và số tiền đã thu được đều được Thủy, Thuyên cập nhật cho Doãn Thị Định lập báo cáo thu chi hàng tháng của Công ty Cổ phần Yên Phước. Các báo cáo này được Thuyên kiểm tra lại trước khi Định gửi báo cáo qua Zalo cho Vũ Thị Minh (nhân viên kế toán) và Ngụy Thị Thanh (con gái Ngụy Văn Thủy) tại TP. HCM để in ra bản giấy, chuyển cho Châu Thị Mỹ Linh biết”.

Đây là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm xác định bị cáo Linh biết có việc bán vật liệu nổ cho bị cáo Vĩnh, Tiến, Công ty TNHH Đông bắc Hải Dương, cũng như các cá nhân khác và bị cáo Linh đồng ý với việc này để từ đó quy kết bị cáo Linh phạm tội “Mua bán, sử dụng trái phép vật liệu nổ”.

Tuy nhiên, theo LS, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra (CQĐT) không tiến hành xác minh, lấy lời khai của 02 người này, không thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Zalo của chị Minh, chị Thanh để xác định có đúng là bị cáo Định gửi báo cáo qua Zalo cho 02 người này không, cũng như xác định xem 02 người này có nhận đươc báo cáo để in ra bản giấy và chuyển cho bị cáo Linh biết như nhận định của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không?.

Ngoài ra, LS Ngô Thị Thu Hằng cho rằng, HĐXX cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất giữa các bị báo. Trong vụ án này, chứng cứ vật chất là sổ cấp phát vật liệu nổ mà các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án này sử dụng để quy trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo về hành vi mua bán, sử dụng trái phép vật liệu nổ. Sổ này là do bị cáo Thủy tự lập để theo dõi, trong sổ này có thể hiện việc giao vật liệu nổ cho bị cáo Vĩnh, bị cáo Tiến và có chữ ký của 02 bị cáo này trong sổ cấp phát vật liệu nổ.

Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vĩnh, bị cáo Tiến đều khẳng định là không mua vật liệu nổ của Công ty Cổ phần Yên Phước, chữ ký trong sổ này không phải của các bị cáo. Nhưng cấp sơ thẩm không tổ chức thực hiện việc đối chất giữa bị cáo Vĩnh, Tiến với bị cáo Thủy để làm rõ vấn đề này.

Trong số 33 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm, có 13 bị cáo có đơn kháng, được TAND Cấp cao tại Hà Nội thụ lý hồ sơ, quyết định đưa ra xét xử phúc thẩm.

Trong số 33 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm, có 13 bị cáo có đơn kháng, được TAND Cấp cao tại Hà Nội thụ lý hồ sơ, quyết định đưa ra xét xử phúc thẩm.

Cũng theo LS, cần thiết phải tiến hành trưng cầu giám định đối với chữ viết, chữ ký của bị cáo Vĩnh, bị cáo Tiến trong Sổ cấp phát vật liệu nổ do bị cáo Thủy lập vì sổ cấp phát vật liệu nổ do bị cáo Thủy lập là một trong các chứng cứ để cấp sơ thẩm xác định và quy kết các bị cáo có việc mua bán, sử dụng trái phép vật liệu nổ. Tuy nhiên, cả bị cáo Vĩnh, bị cáo Tiến đều khẳng định, chữ ký “Vĩnh” “Tiến” ghi trong sổ này không phải là của các bị cáo.

Tại phiên tòa sơ thẩm, khi LS Nguyễn Minh Cường thuộc Văn phòng luật sư Nguyễn Cường & Cộng sự - Chi nhánh Hà Nội hỏi, bị cáo Vĩnh, Tiến đều đề nghị được trưng cầu giám định đối với chữ ký có ghi trong sổ cấp phát này nhưng yêu cầu của các bị cáo không được tòa cấp sơ thẩm chấp nhận.

Trong vụ án này, bị cáo Vĩnh, Tiến kháng cáo kêu oan vì các bị cáo cho rằng mình không có thỏa thuận và mua vật liệu nổ của Công ty Cổ phần Yên Phước với ông Ngụy Quang Thuyên. Do vậy, LS đề nghị được trưng cầu giám định này của bị cáo Vĩnh, Tiến là cần thiết và có căn cứ để HĐXX chấp nhận.

Về cáo buộc TNHS đối với bị cáo Linh, bị cáo Thuyên phạm tội “Mua bán, sử dụng trái phép vật liệu nổ”, theo các LS, không có căn cứ để xác định Công ty Cổ phần Yên Phước đã có Thông báo dừng khai thác mỏ Khu A.

Theo đó, quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng, năm 2017, Công ty Cổ phần Yên Phước đã khoan, nổ thăm dò, xác định tại Khu A không có than theo thiết kế nên Công ty đã thông báo với các cơ quan chức năng về việc dừng khai thác tại Khu A.

Các LS cũng cho rằng, khẳng định của Bản án sơ thẩm chưa đủ căn cứ vì trong hồ sơ không có bất cứ một tài liệu chứng cứ vật chất nào chứng minh Công ty Cổ phần Yên Phước đã có thông báo đến các cơ quan chức năng về việc dừng khai thác than tại Khu A.

Chính Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này, tại Văn bản số 2931/SCT-ATMT ngày 28/10/2022 gửi Cơ quan CSĐT, Bộ Công an là: “Qua rà soát trên hệ thống quản lý văn bản của Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên cho thấy, tại cơ quan Sở từ năm 2016 đến nay không nhận được văn bản cáo cáo, thông báo, đề nghị của Công ty Cổ phần Yên Phước về việc dừng khai thác tại Khu A” (BL 57203). Vậy, ngoài Sở Công Thương còn có cơ quan nào khác không?

Như vậy, cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của của bị cáo Linh, bị cáo Thuyên,… để xác định Công ty Cổ phần Yên Phước đã có thông báo đến các cơ quan chức năng về việc dừng khai thác than Khu A là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự, đó là nhận tội của bị can bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Linh cũng xác định Công ty Cổ phần Yên Phương không có bất cứ thông báo nào đến các cơ quan chức năng về việc dừng khai thác than tại Khu A.

LS cho rằng, không có việc Công ty Cổ phần Yên Phước thông báo dừng khai thác than tại Khu A. Vì nếu năm 2017, Công ty Cổ phần Yên Phước đã có thông báo dừng khai thác thì ngày 12/9/2018, Công ty Cổ phần Yên Phương đã không có văn bản đề nghị và ngày 09/10/2018, Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên đã không cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp số 19/2018/GP-SCT cho Công ty Cổ phần Yên Phước vẫn cho phép Công ty thực hiện nổ mìn bằng cả 02 phương pháp là lộ thiên và hầm lò (BL 26769).

Cũng liên quan đến vấn đề về vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN), LS Nguyễn Minh Cường thuộc Văn phòng luật sư Nguyễn Cường & Cộng sự - Chi nhánh Hà Nội cho rằng, căn cứ buộc tội các bị cáo của Công ty Cổ phần Yên Phước về tội “Mua bán, sử dụng trái phép VLNCN” theo quy định tại Điều 305 Bộ luật Hình sự (BLHS) rất cần được xem xét lại.

Bởi vì, một số lời khai ban đầu của các bị cáo bị quy kết về hành vi mua bán sử dụng VLNCN có dấu hiệu ghi nội dung không đúng, tại Tòa, các bị cáo cũng không thừa nhận các bản cung này. Bảng kê VLNCN được CQĐT sử dụng làm căn cứ chứng minh việc mua bán VLNCN theo quan điểm của LS bào chữa không phải là tài liệu hợp pháp.

Đối với sổ cấp VLNCN của bị cáo Ngụy Văn Thủy được CQĐT sử dụng làm căn cứ chứng minh việc giao nhận VLNCN giữa các bị cáo thuộc Công ty Cổ phần Yên Phước với bị cáo Vĩnh, Tiến được trình chiếu tại phiên tòa sơ thẩm thì không xác định được chữ ký ở phần diễn giải xuất nhập VLN trong sổ có phải là chữ ký của Đỗ Văn Vĩnh và Lương Văn Tiến hay không. Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn Vĩnh, bị cáo Lương Văn Tiến và LS cũng đã yêu cầu giám định chữ ký của bị cáo Vĩnh và bị cáo Tiến tại Sổ cấp VLNCN nhưng không được tòa chấp nhận.

Theo LS Cường, Không có chứng cứ chứng minh việc chuyển tiền mua bán VLNCN nhưng tòa vẫn kết tội về hành vi mua bán VLNCN trái phép.

Các bị cáo sử dụng VLNCN hợp pháp tại Khu A và Khu B đã được cấp phép khai thác khoáng sản nhưng tòa sơ thẩm vẫn cho rằng, các bị cáo sử dụng VLNCN tại Khu A là trái phép. Thực tế, không có văn bản nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn hoặc nghiêm cấm/buộc dừng hoạt động khai thác tại Khu A. Theo Công văn số 2931/SCT-ATMT ngày 28/10/2022 của Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên phúc đáp Công văn số 2609/CV-CSKT-P10 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã khẳng định, từ năm 2016 đến nay không nhận được báo cáo, thông báo, đề nghị nào của Công ty Cổ phần Yên Phước về việc dừng khai thác Khu A.

Toàn bộ quá trình sử dụng vật liệu nổ đều có phương án nổ mìn, hộ chiếu nổ mìn và cán bộ chuyên môn của Công ty Cổ phần Yên Phước đảm nhiệm. Không bàn giao VLNCN cho người bên ngoài công ty sử dụng. Đoàn Thanh tra liên ngành và Thanh tra Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên đã kết luận thanh tra số: 1311/ KLTT-SCT, tháng 7 năm 2020 xác định, Công ty Cổ phần Yên Phước không vi phạm hoạt động VLNCN.

“Khoáng sản khai thác không phải là than”

Cũng tại phiên tòa, LS Nguyễn Minh Cường thuộc Văn phòng luật sư Nguyễn Cường & Cộng sự - Chi nhánh Hà Nội nhận tham gia bào chữa cho bà Châu Thị Mỹ Linh, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Yên Phước và 08 nhân viên Công ty Cổ phần Yên Phước cho rằng: “Không có căn cứ buộc tội các bị cáo của Công ty Cổ phần Yên phước về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” theo Điều 227”.

Theo LS Cường, khoáng sản khai thác không phải là than theo Giấy phép và TCVN, số lượng 3.188.534,78 tấn khoáng sản mà CQĐT xác định Công ty Cổ phần Yên Phước và Công ty TNHH Đông Bắc Hải Dương khai thác vượt công suất không phải là than được ghi nhận trong theo mục 2 và mục 6 của Giấy phép khai thác khoáng sản đã cấp cho Công ty Cổ phần Yên Phước. Theo Giấy phép khai thác khoáng sản, sản phẩm sau khai thác là: Than cám 3, cám 4 và than kẹp lẫn sit được sàng tuyển, phối trộn làm than phụ phẩm. Tuy nhiên, Bản kết luận giám định tư pháp ngày 24/02/2023 của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường kết luận các mẫu khoáng sản đưa đi giám định là: Chủng loại than dưới mức chất lượng than không phân cấp. Theo TCVN 8910:2020, Than thương phẩm - Yêu cầu kỹ thuật thì chủng loại than dưới mức chất lượng than không phân cấp không phải là than cám 3, cám 4 và cũng không phải là than theo TCVN.

Cũng theo LS Cường, căn cứ mà tòa sơ thẩm sử dụng làm chứng cứ buộc tội các bị cáo thuộc Công ty Cổ phần Yên Phước về hành vi khai thác vượt công suất, vượt trữ lượng theo Giấy phép khai thác khoáng sản là các lời khai ban đầu của các bị cáo và các sổ sách ghi tay, bảng kê hàng hóa được lập trong quá trình điều tra.

Đây chỉ là sổ tay của các bị cáo là nhân viên phụ trách cân hàng của Công ty Cổ phần Yên Phước chủ yếu là sổ nháp cá nhân, không có xác nhận của lãnh đạo Công ty, không có dấu pháp nhân nên các nội dung ghi trong đó liệu có giá trị pháp lý hay không? Bảng kê hàng hóa bán cho Công ty TNHH Đông Bắc Hải Dương có chữ ký của bị cáo Đỗ Thị Luyến được CQĐT/VKS/Tòa sơ thẩm sử dụng để xác định khối lượng khoáng sản khai thác thực tế được lập trong giai đoạn điều tra không phải là tài liệu hợp pháp để sử dụng làm chứng cứ trong vụ án.

Những nội dung ghi trong bảng kê Than cám giá trị từ 100.000 đồng/tấn đến 130.000 đồng/tấn đã chứng minh khoáng sản ghi trong sổ không phải là than, vì thời điểm đó than cám có giá trên thì trường khoảng 2.000.000 đồng/tấn trở lên.

Hơn nữa, Bản kết luận giám định tư pháp ngày 24/02/2023 của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường cũng đã kết luận, chủng loại khoáng sản đã thu giữ là: Chủng loại than dưới mức chất lượng than không phân cấp. Đây là khái niệm không có trong Tiêu chuẩn TCVN 8910:2020.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Giám định viên tư pháp không chứng minh được Chủng loại than dưới mức chất lượng than không phân cấp là loại gì, có được quy định theo TCVN 8910:2020 về chủng loại than hay không?

Năm 2014, Công ty Cổ phần Yên Phước được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy phép khai thác khoáng sản tại Mỏ than Minh Tiến.

Năm 2014, Công ty Cổ phần Yên Phước được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy phép khai thác khoáng sản tại Mỏ than Minh Tiến.

Theo LS Cường, nếu Cơ quan giám định khách quan dựa vào Tiêu chuẩn than Việt Nam TCVN 8910.2020 Than thương phẩm ban hành kèm theo Quyết định số 3111/2020 của Bộ Khoa học và Công nghệ để xác định khối khoáng sản đang bị thu giữ không phải là than thì CQĐT không đủ chứng cứ buộc tội các bị cáo thuộc Công ty Công ty Yên Phước về hành vi khai thác vượt công suất, vượt trữ lượng theo Giấy phép khai thác khoáng sản về tội danh theo Điều 227 BLHS 2015.

PV

Các tin khác