Ảnh minh hoạ.
Theo đó, về quản lý, sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, VCCI cho biết, theo quy định tại Điều 19 Luật Nhà ở 2023, Điều 5 Dự thảo, tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ có mục đích để ở của mỗi tòa chung cư (không quá 30% tổng số căn hộ có mục đích để ở của mỗi đơn nguyên, mỗi khối nhà trong trường hợp tòa nhà chung cư có nhiều đơn nguyên hoặc nhiều khối nhà). Như vậy, đối với tòa nhà chung cư, chủ đầu tư sẽ biết được số lượng căn hộ được phép bán cho tổ chức, cá nhân nước ngoài. Việc bán căn hộ chung cư cho các đối tượng này giữa các tòa nhà chung cư trong phạm vi địa phương không ảnh hưởng đến nhau.
Đối với nhà ở riêng lẻ, tổng số lượng sở hữu nhà ở riêng lẻ của tổ chức, cá nhân nước ngoài của các dự án trong khu vực (10.000 dân) có sự ảnh hưởng đến nhau, vì chịu sự khống chế không được vượt quá 250 căn, nếu các dự án đã bán đủ 250 căn rồi, các dự án sau trong khu vực không được phép bán, tặng cho nhà ở riêng lẻ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài nữa. Vì vậy, cần có thông tin chung để có thể kiểm soát tổng số lượng nhà ở riêng lẻ bán trong một khu vực.
Tại Khoản 2 Điều 7 Dự thảo quy định trước khi ký hợp đồng mua bán, cho thuê mua, tặng cho chủ đầu tư xây dựng nhà ở phải kiểm tra thông tin trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có dự án nhà ở hoặc đề nghị cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh cung cấp thông tin để xác định số lượng nhà ở được bán, cho thuê mua. Sau khi ký hợp đồng mua bán, cho thuê mua, tặng cho nhà ở, chủ đầu tư có trách nhiệm thông báo ngay thông tin trong ngày về địa chỉ nhà ở đã bán, cho thuê mua, đã tặng cho đến cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà ở để đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Sở.
VCCI cho rằng, quy định này chỉ áp dụng phù hợp đối với việc bán, cho thuê mua, tặng cho nhà ở riêng lẻ, khi chủ đầu tư cần cung cấp thông tin về các giao dịch cho cơ quan nhà nước, cần kiểm tra số lượng giao dịch đã thực hiện trên địa bàn, khu vực để đảm bảo không vượt quá 250 tổng số lượng căn hộ được phép bán, cho thuê mua, tặng cho. Đối với việc bán căn hộ chung cư, thủ tục kiểm tra thông tin trước khi ký hợp đồng giao dịch là không cần thiết, vì chủ đầu tư đã xác định được số lượng căn hộ được phép bán trong mỗi tòa chung cư của mình và số lượng căn chung cư được bán trong khu vực không bị khống chế về tổng số lượng.
Để đảm bảo sự phù hợp và giảm thủ tục cho nhà đầu tư, Ban soạn thảo quy định điểm a, b khoản 2 Điều 7 Dự thảo áp dụng đối với các giao dịch nhà ở riêng lẻ. Đối với giao dịch nhà chung cư, chủ đầu tư có trách nhiệm thông báo về tổng số căn hộ chung cư đã bán cho tổ chức, cá nhân nước ngoài theo định kỳ thay vì phải thông báo ngay thông tin trong ngày sau khi ký hợp đồng.
NGỌC ÁNH
Bộ Xây dựng đề xuất quy định chung về quản lý, sử dụng nhà ở thuộc tài sản công