Hiệp định thương mại tự do (FTA): Các doanh nghiệp Việt Nam cần vận dụng để tăng cường cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài

02/08/2020 20:03 | 3 năm trước

(LSO) - Trải qua 14 vòng đàm phán, nhiều cuộc họp cấp Bộ trưởng, các phiên họp cấp Trưởng đoàn đàm phán và các phiên họp cấp kỹ thuật chính thức và không chính thức, vượt qua rất nhiều khó khăn, trở ngại, với sự quyết tâm và nỗ lực, kết tinh của một thập kỷ nỗ lực không ngừng nghỉ chính là sự kiện Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 8 năm 2020. Đây chính là dấu mốc vô cùng quan trọng trong lịch sử kinh tế thương mại của đất nước

Ảnh minh họa.

Khái quát Hiệp định FTA

"FTA" là viết tắt của cụm từ "Free Trade Agreement" (Hiệp định thương mại tự do) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia được ký kết cùng nhau với mục đích cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do.

FTA có thể mang nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ như Hiệp định Đối tác Kinh tế (Economic Partnership Agreement), Hiệp định Thương mại khu vực (Regional Trade Agreement)… nhưng bản chất đều là các thỏa thuận hướng tới tự do hóa thương mại giữa các thành viên. FTA có thể song phương (02 thành viên) hoặc đa phương/khu vực (nhiều hơn 02 thành viên).

Các thống kê được thực hiện cho biết hiện có trên 200 Hiệp định thương mại tự do được ký kết và có hiệu lực có tác động tích cực, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Theo quan niệm truyền thống tại GATT 1947 trong Điều XXIV điểm 8b thì FTA là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ thuế quan trong đó thuế và các quy định thương mại khác sẽ bị dỡ bỏ đối với phần lớn các mặt hàng có xuất xứ từ các lãnh thổ đó và được trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ thuế quan đó.

Cho tới nay đã có rất nhiều các tổ chức và đất nước khác nhau đưa rõ ra các định nghĩa về FTA cho riêng mình. Việc này thể hiện những khái niệm khác nhau về FTA cũng như sự tăng trưởng đa dạng của các đất nước. Tuy vậy theo cách hiểu chung nhất, FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng cách cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi sản phẩm, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.
Tại thời điểm này, FTA còn có cả các nội dung mới xúc tiến và tự do hóa đầu tư, chuyển giao công nghệ, lao động, môi trường.

Tại Việt Nam, theo Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI thì Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement- FTA) là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản đối với phần lớn thương mại giữa các thành viên với nhau.

Một FTA thường gồm có những yếu tố quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch và lệ phí đối với hàng hóa/dịch vụ được giao dịch giữa các thành viên ký kết FTA nhằm cho phép các nước mở rộng tiếp cận thị trường của nhau. Một FTA thông thường bao gồm những nội dung chính sau:

- Quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan;

- Quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan;

- Quy định lộ trình cắt giảm thuế quan; thứ tư là quy định về quy tắc xuất xứ.

Các thông tin khác nói tới nỗi lo tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các cách thức làm hạn chế định lượng, các rào cản kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, lao động, bảo hiểm và môi trường…

Hiện nay có một số loại FTA mà Việt Nam như: FTA khu vực; FTA song phương; FTA đa phương; FTA được ký giữa một tổ chức với một nước.

Hiệp định CPTTP là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, gồm 11 nước thành viên là: Ốt-xtrây-li-a, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam. Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.

Hiệp định EVFTA là Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EU là một Hiệp định thương mại thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU.

EVFTA cùng với CPTTP là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước đến giờ. EVFTA được tách làm 2 hiệp định, một là Hiệp định Thương mại (EVFTA) và một Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA), hai hiệp định được kí kết ngày 30/6/2019, được Nghị viện châu Âu phê chuẩn ngày 12/2/2020, được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn vào 08/6/2020.

Ngày 30/3/2020, Hội đồng châu Âu cũng đã thông qua EVFTA. Đối với EVFTA, do đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn, Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2020. EVIPA sẽ có hiệu lực sau khi được Quốc hội tất cả các nước thành viên EU phê chuẩn.

Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp (DN) Việt còn chưa tường tận về các Hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới như CPTTP và EVFTA. Nhiều doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong việc thực thi các FTA. Nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về các FTA còn khá hạn chế. Tỷ lệ các doanh nghiệp có hiểu biết nhất định về các FTA tiêu biểu (đã tìm hiểu một số cam kết hoặc đã tìm hiểu kỹ) chỉ là thiểu số (kể cả FTA lớn như CPTPP). Tỷ lệ các doanh nghiệp có hiểu biết sâu về các FTA hầu như rất nhỏ.

Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng này là tính chủ động, sẵn sàng của các doanh nghiệp chưa cao, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc cập nhật, chuẩn bị các điều kiện cần thiết đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập FTA nói riêng. Các doanh nghiệp còn thụ động, thủ công, chưa có tính sáng tạo, thiếu hụt thông tin về cam kết, cách thức thực hiện.

Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa có thể xuất phát từ lý do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay các doanh nghiệp của chúng ta năng lực cạnh tranh kém, khó đáp ứng quy tắc xuất xứ và cam kết bất lợi. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết dẫn đến các hàng hóa sản xuất trong nước chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu, đồng thời các ngành sản xuất trong nước chịu tác động trực tiếp của những biến động trên thị trường hàng hóa quốc tế.

Mặt khác, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công lắp ráp, nguyên phụ liệu đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu; Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu thấp, trong khi tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chậm được cải thiện…

Bên cạnh đó, mối liên kết giữa khối doanh nghiệp FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và doanh nghiệp trong nước còn yếu kém; Các doanh nghiệp FDI chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công lắp ráp, thâm dụng lao động và ít có khả năng tạo tác động lan tỏa về mặt công nghệ. Các doanh nghiệp cũng chậm chuyển biến trong chiến lược về cắt giảm chi phí, đảm bảo tiến độ giao hàng hay thực hiện tốt các cam kết quốc tế. Việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu cũng như vào phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu khả năng đáp ứng yêu cầu của chuỗi, nhất là về chất lượng sản phẩm.

Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải vận dụng hiệp định FTA để tăng cường cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động xuất nhập khẩu

FTA có rất nhiều tác dụng tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam như góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giúp mở rộng hơn nữa thị trường hàng xuất khẩu, nhất là những sản phẩm lợi thế như nông thủy sản, đồ gỗ, dệt may, giày dép… của Việt Nam. Nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm, từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất khẩu.

Việc cắt giảm thuế quan sẽ khiến hàng hóa nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là các nước EU vào Việt Nam sẽ nhiều hơn do giá thành rẻ, mẫu mã phong phú và đa dạng, tác động tích cực đến sản xuất trong nước. FTA cũng tạo điều kiện thay đổi, cải thiện chính sách pháp luật theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh hơn, giúp hạn chế bớt những công nghệ lạc hậu và thúc đẩy phát triển các công nghệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường.

Như vậy, dễ dàng nhận thấy những xu hướng này mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam và cho các Doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, việc am hiểu sâu sắc, từ đó vận dụng có hiệu quả Hiệp định là yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp muốn phát triển cần nắm rõ các nội dung, quy định của Hiệp định FTA. Để làm được điều này cần lưu ý những vấn đề sau:

- Các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu, nghiên cứu để có sự hiểu biết nhất định và biết cách vận dụng, vận dụng hiệu quả Hiệp định nhằm tạo điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Các doanh nghiệp cần chủ động đi trên con đường hội nhập đã được mở rất rộng, tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết, tìm hiểu kiến thức, thông tin về hiệp định, cách thức thực hiện thông qua việc tham gia các chương trình phổ biến, hội nghị, hội thảo, khóa tập huấn về các hiệp định; tra cứu tài liệu, thông tin cập nhật về hiệp định tại trang thông tin điện tử của Bộ Công thương hoặc liên hệ trực tiếp Bộ Công thương nếu có thắc mắc trong quá trình vận dụng thực thi hiệp định.

- Bên cạnh việc cập nhật bổ sung kiến thức thì phải nỗ lực cải thiện chính mình, nâng cao năng lực của doanh nghiệp bằng việc xây dựng kế hoạch dài hạn, bài bản; nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh thông qua ứng dụng khoa học và công nghệ; học tập, áp dụng các mô hình thành công để có sự chuẩn bị tốt nhất khi phải đối mặt với áp lực cạnh tranh. Chủ động hợp tác, liên kết để nâng cao sức mạnh, xây dựng các chuỗi cung ứng thông qua thúc đẩy liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân, hộ sản xuất nhằm nâng cao giá trị cũng như tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.

Trong quá trình thực thi hiệp định, các doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến các nguyên tắc, tiêu chuẩn về lao động được quy định rất chi tiết trong hiệp định, đồng thời lưu ý đến các quy định, nguyên tắc về bảo vệ môi trường;… Một cách thức tiếp cận khá đó là Doanh nghiệp tìm nhà cung ứng từ các thị trường có FTA để tận dụng ưu đãi.

Ngoài sự chủ động từ phía doanh nghiệp, thiết nghĩ các cơ quan Nhà nước cũng cần có những giải pháp đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên tuyền, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của doanh nghiệp về các quy định, cam kết của Hiệp định; hoàn thiện khung pháp lý về việc thực thi các hiệp định.

Vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc triển khai những nội dung của Hiệp định này cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc tế

Chúng ta cũng nhận thấy rằng những lợi thế, cơ hội do FTA mang lại chưa được các doanh nghiệp Việt Nam vận dụng và khai thác triệt để. Ngoài nguyên nhân các doanh nghiệp thiếu chủ động trong việc triển khai thực hiện các FTA thì phía cơ quan quản lý nhà nước khi cải cách thể chế, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực thi các FTA vẫn còn chậm, chưa thể hiện được vai trò của mình trong việc khuyến khích, hướng dẫn, kết nối các hiệp hội doanh nghiệp trong quá trình đàm phán, tổ chức thực hiện các FTA.

Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp.

Nội dung phổ biến, tuyên tuyền về các FTA của các cơ quan nhà nước chưa đi vào vấn đề cụ thể mà doanh nghiệp quan tâm, cách thức hướng dẫn khó hiểu, phức tạp. Vì thế, để triển khai thực hiện có hiệu quả các FTA ngoài sự chủ động từ phía doanh nghiệp thì cơ quan quản lý Nhà nước cần xem lại cách thức triển khai để việc tuyên truyền thiết thực, hiệu quả hơn và rà soát, hoàn thiện khung pháp lý nhằm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp.
Theo đó kết quả thực thi các FTA cần được định kỳthống kê, so sánh với các dự báo đánh giá thời điểm phê chuẩn, so sánh với kế hoạch tổng thể thực thi, nhận diện bất cập, nguyên nhân và các giải pháp xử lý.

Đồng thời, định kỳ rà soát lại các khung khổ pháp luật và có điều chỉnh, cập nhật chương trình lập pháp để đáp ứng các yêu cầu trong thực hiện FTA. Cần thiết lập một đầu mối cấp Chính phủ về các FTA để cung cấp thông tin, xử lý các vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện FTA.

Bên cạnh đó các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ, thực chất các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, góp phần giải phóng nguồn lực và năng lực sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ và năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục tăng cường để đáp ứng yêu cầu quản lý, giám sát thị trường, cải cách thủ tục hành chính,…

Về vấn đề khung pháp lý, chúng ta cần tập trung nghiên cứu các giải pháp triệt để cải thiện các nút thắt về cơ sở hạ tầng, chất lượng, năng suất lao động, khả năng tiếp cận vốn (đặc biệt trong giai đoạn hậu Covid-19)…; Hoàn thiện thể chế, chính sách gắn với việc thực hiện các cam kết hội nhập, nhằm nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng vốn đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường công tác kiểm soát các doanh nghiệp FDI, nhất là các doanh nghiệp thường báo lỗ để tránh các hiện tượng chuyển giá; Hoàn thiện các chính sách thương mại cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam và không xung đột với các cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã và sẽ tham gia; Thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi, nhất là về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, phát triển công nghiệp hỗ trợ, khuyến khích sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; Xây dựng và quy hoạch, đồng bộ hóa các ngành công nghiệp hỗ trợ xác định ngành công nghiệp phụ trợ phù hợp với Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, đảm bảo tính hiệu quả trong thực thi chính sách, nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

Ngoài ra, theo tôi vấn đề tuyên truyền, phổ biến pháp luật là rất cần thiết. Cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin các cam kết, hiệp định thông qua nhiều hình thức đặc biệt là hình thức online về cam kết của các FTA mà Việt Nam tham gia, đặc biệt là cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Để triển khai có hiệu quả các FTA, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách gắn với việc thực hiện các cam kết hội nhập, nhằm nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng vốn đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh. Kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bãi bỏ quy định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế song phương, đa phương và khu vực mà Việt Nam là thành viên; Đẩy mạnh cải cách hành chính đặc biệt là lĩnh vực về đầu tư, xây dựng, đất đai, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.

Cũng không thể không kể đến vai trò của các hiệp hội. Các hiệp hội cần cung cấp và tư vấn cho doanh nghiệp về pháp luật kinh doanh, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, những rào cản thương mại của các thị trường xuất khẩu; Phổ biến thông tin hội nhập về pháp luật của các nước, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ… cho các doanh nghiệp. Hiệp hội đóng vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý, tạo điều kiện kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp.

Ngoài ra, để triển khai có hiệu quả các FTA, vai trò then chốt thuộc về các doanh nghiệp, chính doanh nghiệp phải tăng cường liên kết với nhau, tạo những cơ hội đầu tư nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh; Chủ động xây dựng năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu; Đổi mới hoạt động quản trị doanh nghiệp và công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng sản phẩm; Xây dựng các chiến lược kinh doanh, phát triển sản xuất để có thể cạnh tranh với hàng hóa từ các nước trong khu vực ngay cả trong thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi về thuế quan.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần theo dõi sát sao các thông tin, lộ trình cam kết… từ đó, đưa ra định hướng đúng, xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý. Quan trọng hơn, cộng đồng doanh nghiệp phải có lộ trình thích nghi, thay đổi phù hợp. Bởi vì, nếu rào cản thuế quan được gỡ bỏ hoàn toàn và mang lại lợi ích kinh tế lớn, thì quy tắc xuất xứ nổi lên như một rào cản mới.Ngoài ra, cần có cơ chế đầu tư nguồn nhân lực, có chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần thỏa đáng cho người lao động, khuyến khích người lao động tự động nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của mình.

Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp
/hiep-dinh-evfta-chinh-thuc-co-hieu-luc-tu-ngay-hom-nay-01-8.html