/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bàn về xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên

Bàn về xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên

25/11/2022 04:51 |2 năm trước

(LSVN) - Trong tố tụng dân sự, nhiều trường hợp bắt buộc Tòa án phải xác định chính xác tuổi của đương sự. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội và bị hại trong vụ án hình sự còn mà chưa có quy định về xác định tuổi trong tố tụng dân sự. Điều này dẫn đến những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án mà cần phải xác định được tuổi của đương sự, nhất là đương sự là người chưa thành niên. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân các trường hợp cụ thể cần xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên, nêu một số bất cập trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên.

(LSVN) - Trong tố tụng dân sự, nhiều trường hợp bắt buộc Tòa án phải xác định chính xác tuổi của đương sự. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội và bị hại trong vụ án hình sự còn mà chưa có quy định về xác định tuổi trong tố tụng dân sự. Điều này dẫn đến những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án mà cần phải xác định được tuổi của đương sự, nhất là đương sự là người chưa thành niên. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân các trường hợp cụ thể cần xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên, nêu một số bất cập trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên.

Ảnh minh họa.

1. Các trường hợp cần xác định tuổi của đương sự là người chưa thành niên

Trong tố tụng dân sự, nhiều trường hợp bắt buộc Tòa án phải xác định chính xác tuổi của đương sự như: tuổi của đương sự trong vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; tuổi của con chưa thành niên trong vụ án ly hôn, tuổi của đương sự trong trường hợp có đơn yêu cầu miễn án phí… Tuy nhiên, hiện nay chỉ có quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội và bị hại trong vụ án hình sự còn mà chưa có quy định về xác định tuổi trong tố tụng dẫn sự. Điều này dẫn đến những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án mà cần phải xác định được tuổi của đương sự, người làm chứng…

Thông thường trong các giấy tờ tùy thân của cá nhân như: Giấy khai sinh, giấy chứng minh nhân dân… Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà trong các giấy tờ tùy thân của họ chỉ có năm sinh mà không có ngày và tháng sinh. Nhiều trường hợp như vậy, bắt buộc Tòa án phải làm rõ chính xác tuổi của họ. Như trong một số trường hợp sau:

1.1. Trong vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Theo Điều 586 của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau:

“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.

Như vậy, trong một vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành niên gây ra thì cần phải xác định tuổi của người chưa thành niên. Tùy thuộc vào từng độ tuổi của người chưa thành niên mà Tòa án xác định ai là bị đơn. Về xác định tư cách đương sự của người chưa thành niên gây thiệt hại theo quy định tại Điều 568 của BLDS năm 2015 thì hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, trước đây Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao có hướng dẫn về xác định tư cách đương sự trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành niên gây ra tại tiểu mục 3.1, mục 3, phần 1, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 như sau:

“3.1. Khi thực hiện quy định tại Điều 606, BLDS về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp; cụ thể như sau:

– Trong trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 606, BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;

– Trong trường hợp quy định tại đoạn 1, khoản 2, Điều 606, BLDS thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;

– Trong trường hợp quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 606, BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

– Trong trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 606, BLDS thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự”.

Theo hướng dẫn trên nếu người gây thiệt hại từ đủ 18 tuổi trở lên thì cha mẹ của họ là bị đơn. Nếu người gây thiệt hại dưới 15 tuổi thì cha mẹ của họ là bị đơn. Nếu người gây thiệt hại từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì họ là bị đơn. Nếu người gây thiệt hại dưới 18 tuổi mà có người giám hộ thì người giám hộ là bị đơn. Nghiên cứu quy định tại Điều 606, BLDS năm 2005 và Điều 568, BLDS năm 2015 thì không có gì khác nhau. Như vậy, trong vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành niên gây ra thì cần phân biệt ba độ tuổi sau để xác định tư cách đương sự của người chưa thành niên: một là, người đó dưới 15 tuổi; hai là, người đó từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; ba là, người đó từ đủ 18 tuổi trở lên.

Dẫn chứng vụ án sau đây để thấy rằng thực tiễn giải quyết vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (thiệt hại về sức khỏe) vẫn còn vướng mắc trong việc xác định bị đơn trong vụ án. Nội dung vụ án như sau: Ngày 12/5/2019, Nguyễn Văn A., sinh năm 2004 (giấy khai sinh của A. không ghi ngày tháng sinh) đánh Trần Văn B., sinh năm 2003 gây thương tích (chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự) và B. phải nằm viện điều trị 02 ngày. Gia đình của B. khởi kiện yêu cầu gia đình A. bồi thường chi phí điều trị thương tích. Trong vụ án này, ai là bị đơn.

Có quan điểm cho rằng theo giấy khai sinh A. sinh năm 2004 nên xác định A. sinh ngày 01/01/2004. Do đó, A. khi gây thương tích cho B. đã trên 15 tuổi nên A. là bị đơn. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng cần phải tiến hành các biện pháp xác minh về ngày tháng sinh của A. Nếu có căn cứ cho rằng A. sinh trước ngày 12/5/2004 thì A. chưa đủ 15 tuồi nên cha mẹ A. là bị đơn. Nếu có căn cứ xác định A. sinh sau ngày 12/5/2019 thì A. đã trên 15 tuổi nên A. là bị đơn.

1.2. Trong vụ án ly hôn có tranh chấp về nuôi con

Theo quy định tại khoản 2, Điều 81, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” Theo quy định này thì trong vụ án ly hôn mà vợ chồng có con chưa thành niên thì Tòa án phải giải quyết giao con chưa thành niên cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi dưỡng nếu Tòa án giải quyết vợ chồng ly hôn. Còn nếu con từ đủ 18 tuổi trở lên thì Tòa án sẽ không xem xét giải quyết việc nuôi con. Do đó, nếu người còn chưa đủ 18 tuổi mà Tòa án không xem xét giải quyết giao con cho vợ hoặc chồng nuôi thì không đúng quy định. Nhưng nếu con từ đủ 18 tuổi mà Tòa án giải quyết việc nuôi con chung thì cũng không đúng quy định. Chính vì vậy mà bắt buộc Tòa án phải xác định được người con đã thành niên hy chưa thành niên.

Thực tiễn có vướng mắc như sau: Ngày 19/4/2019, bà A. nộp đơn xin ly hôn ông B. và yêu cầu được quyền nuôi con là C. sinh năm 2001 (theo giấy khai sinh). Trong trường hợp này Tòa án có xem xét giải quyết yêu cầu nuôi con của bà A. không. Có quan điểm cho rằng C. sinh năm 2001 tức xác định là ngày 01/01/2001 nên C. đã đủ 18 tuổi. Vì vậy, Tòa án không xem xét giải quyết yêu cầu nuôi con của bà A. Nhưng có quan điểm cho rằng cần phải xác định C sinh ngày 31/12/2001 nên C chưa đủ 18 tuổi. Vì vậy, Tòa án phải xem xét giải quyết giao A. cho bà A. hay ông B. nuôi khi ly hôn.

2. Bất cập trong thực tiễn

Theo quy định trường hợp người từ 15 tuối đến dưới 18 tuổi mà gây thiệt hại cho người khác thì họ phải bồi thường bằng tài sản của minh nên họ được xác định là bị đơn. Tuy nhiên, liên quan đến đương sự là người chưa thành niên, thực tiễn vẫn còn nhận thức khác nhau về một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, theo quy định khi tham gia tố tụng đương sự là người chưa thành niên thì phải có người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Như vậy, đến một gia đoạn tố tụng nào đó mà vụ án chưa được giải quyết xong mà đương sự đã thành niên thì có bắt buộc cha mẹ của họ tiếp tục tham gia tố tụng không. Nếu Toà án quyết định cha mẹ của họ không tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của đương sự do đương sự đã thành niên thì thủ tục giải quyết vấn đề này thực hiện như thế nào.

Thứ hai, tại khoản 2, Điều 568, BLDS năm, 2015 có quy định: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Như vậy, trong trường hợp này, cha mẹ của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại có được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không. Có ý kiến cho rằng không xác định cha mẹ của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì cha mẹ chỉ thực hiện việc bồi thường nếu như người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không có đủ tài sản để bồi thường và việc bồi thường của cha mẹ là sau khi có Bản án, Quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng cần phải xác định cha mẹ của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại có được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì khi giải quyết vụ án, Toà án phải quyết định buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường nếu như người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không có đủ tài sản để bồi thường và ghi rõ trong Bản án, Quyết định của Toà án.

3. Đề xuất, kiến nghị

Xuất phát từ những bất trong liên quan đến đương sự trong vụ việc dân sự như đã phân tích, để việc áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn, tác giả kiến nghị cơ quan Trung ương có thẩm quyền cần sớm có hướng dẫn cụ thể. Riêng đối  với việc xác định tuổi của đương sự trong vụ việc dân sự, tác giả kiến nghị Tòa án nhận dân tối cao có hướng dẫn cụ thể về xác định tuổi của đương sư trong tố tụng dân sự theo hướng như sau:

– Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

– Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.

– Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

– Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

– Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

Kết luận

Việc xác định chính xác tuổi của đương sự có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu xác định tuổi của đương sự không đúng có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định tuổi của đương sự do chưa có quy định hoặc hướng dẫn nào cụ thể. Do đó, việc TAND Tối cao sớm có hướng dẫn hoặc giải đáp nghiệp vụ về cách xác định tuổi của đương sự trong tố tụng dân sự là rất cần thiết. Qua đó, tháo gỡ khó khăn vướng mắc của Tòa án địa phương.

DƯƠNG TẤN THANH

Học viên Trường Đại học Trà Vinh