/ Thuật ngữ pháp lý
/ Lợn trong đời sống văn hóa Việt Nam

Lợn trong đời sống văn hóa Việt Nam

05/01/2021 17:55 |

LSVNO - Trong những vật nuôi, lợn (heo) là loài gia súc đông đảo, có ý nghĩa tinh thần phong phú và giá trị biểu tượng cao. Nó thể hiện vai trò gần gũi mà quan trọng, tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ,...

LSVNO - Trong những vật nuôi, lợn (heo) là loài gia súc đông đảo, có ý nghĩa tinh thần phong phú và giá trị biểu tượng cao. Nó thể hiện vai trò gần gũi mà quan trọng, tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ, đa dạng và tích cực trong đời sống văn hóa Việt Nam.

Được thuần dưỡng từ rất sớm, sử dụng phổ biến, liên tục, lâu dài, mang giá trị vật chất đa dạng và mật thiết, nên lợn (heo) cũng tạo giá trị tinh thần phong phú, ảnh hưởng sâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hóa của người Việt Nam. Từ thời tiền sử cách đây hàng vạn năm, trên những vách đá trong các hang động tại Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình, Gia Lai, Lâm Đồng, Tây Ninh và An Giang, đã thấy nhiều hình lợn được vẽ, khắc bởi người Việt cổ. Trong những di chỉ thời đồ đá mới (cách đây 60-100 thế kỷ), đã thấy các vật trang sức và bùa đeo được chế tác từ răng nanh lợn rừng. Sang thời Văn Lang và Âu Lạc (cách đây 21-27 thế kỷ), tìm thấy nhiều hình lợn, trâu, gà, chim hạc và cá sấu được dập đúc hoặc chạm khắc trên các vật dụng bằng sắt, đồng, gốm như trống chiêng, chum vại, bình ấm, nồi bát, dao mác, gậy cột…

Lợn là một trong 6 vật nuôi thông dụng nhất (lục súc: lợn, gà, chó, ngựa, trâu, dê) và một trong 3 thứ lễ vật đặc biệt để cầu cúng, tế dâng thần thánh (tam sinh: lợn, bò, dê). Theo quan niệm tín ngưỡng truyền thống, lợn (trư) được coi là đại diện cho ngày thứ ba, ngày cuối của Tết Nguyên đán - ngày mùng Ba tháng Giêng - gọi là trư nhật (ngày mùng Một tháng Giêng ứng với gà, mùng Hai - chó, mùng Ba - lợn, mùng Bốn - dê, mùng Năm - trâu, mùng Sáu - ngựa, mùng Bảy - người, mùng Tám - lúa). Trong sự kết hợp thiên can với địa chi để tính thời gian và chu kỳ phát triển, lợn nhập hệ lịch can chi 12 con vật, là biểu tượng của chi Hợi - chi cuối cùng, quan trọng, mang những ý nghĩa triết lý và nhân văn sâu sắc. Giờ Hợi kéo dài từ 21 đến 23 giờ, là giờ cuối trong ngày, giờ lợn đi ngủ, giờ mở đầu ban đêm, con người và mọi vật cũng nghỉ ngơi. Tháng Hợi là tháng 10 âm lịch, đầu mùa đông, trời chuyển lạnh, nhiều loài cây trồng, vật nuôi cho thu hoạch sản phẩm. Người ta còn cho rằng người sinh năm Lợn (tuổi Hợi) thường tài giỏi, nhàn nhã, sung túc và hay đắc lộc, gặp nhiều may mắn, hạnh phúc trong đời.

Ngôn ngữ luôn là nền tảng của đời sống tinh thần và văn hóa con người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, hình ảnh lợn xuất hiện rất đa dạng, sinh động, hấp dẫn, diễn tả chi tiết hoặc đầy ngụ ý. Chúng ta gặp “lợn” (heo) ở nhiều tình huống, nhiều lĩnh vực ngôn từ: tự nhiên và xã hội, lý thuyết sách vở và giao tiếp thực tiễn… “Óc lợn” chế giễu, miệt thị sự hiểu biết chậm chạp và ngu ngốc; “mũi lợn” chỉ loại mũi người ngắn mà lỗ mũi lại bạnh lộ; “nái sề” ví với người phụ nữ có tuổi, nhiều con, cơ thể nhão sệ; “lợn sữa” là cách gọi trẻ con ngờ nghệch nhưng đáng yêu; “phim con heo” là phim đồi trụy; “trò con heo” hay “heo đú mỡ” chê hành động nam nữ đú đởn, suồng sã, bậy bạ; “xắn móng lợn” là cách xắn quần bằng vén cuộn tròn hai ống lên ngang bắp chân; “toạc móng heo” thể hiện qua kiểu nói, cách sống thẳng thắn, không che đậy, không nể nang… Lợn hiện diện trong nhiều loại địa danh đồi núi, sông hồ, bến đảo, ga chợ… trên khắp mọi miền đất nước: suối Mỏ Heo (Lạng Sơn), gò Con Lợn (Phú Thọ), hồ Hàm Lợn (Hà Nội), sông Ruột Lợn (Hải Phòng), núi Con Heo (Quảng Nam), hang Heo (Khánh Hòa), đồi Con Heo (Bà Rịa-Vũng Tàu), dốc cua Heo (Đồng Nai), núi Heo (Tây Ninh), cầu Lò Heo (Bình Phước và Cần Thơ), cầu Mỏ Heo (Long An), đảo Hòn Heo (Kiên Giang)… Lợn được lấy tên cho nhiều loài động vật: cá heo, chim lợn, heo vòi, lợn biển, gấu lợn, lửng lợn, dơi mặt lợn, rùa mũi lợn… Lợn được dùng phổ biến làm thực phẩm và dược liệu, nên tên nó cũng được đặt cho nhiều loài thực vật - nhất là những cây trồng để ăn, làm cảnh và chế thuốc: cây cá heo, cỏ lông heo, cây lèo heo, cây điệp phèo heo, dây lưỡi lợn, cây cứt lợn (cỏ hôi, cây hoa ngũ vị), rau gan heo (lá diễn)

Lợn (heo) còn được lấy làm đối tượng cho hàng trăm câu ngạn ngữ, phương ngữ, tục ngữ, thành ngữ sinh động, dân dã và thâm thúy. Các thành ngữ “ăn như heo”, “bẩn như lợn”, “mập như heo/béo như lợn”, “lười như lợn/heo”, “ngu như lợn/heo”… là lời ví dùng phổ biến trong đời sống dân cư mọi miền. “Chạy xoạc móng heo” diễn tả sự vất vả và chạy vạy nhiều nơi. “Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon” khẳng định hình thức sẽ phản ánh nội dung. “Hùm nằm cho lợn liếm lông” chỉ điều phi lý, ngược đời. “Lợn cưới, áo mới” chế giễu sự khoe khoang lố bịch, kệch cỡm, không phù hợp hoàn cảnh. “Lợn rọ, chó thui” lại lưu ý về sự vật, hiện tượng không đúng thực chất trong cuộc sống. “Mượn đầu heo nấu cháo” cảnh báo sự giả dối, thủ thuật, việc lợi dụng, bòn rút một cách khôn khéo, tinh vi…

Lợn (heo) cũng là hình ảnh tiêu biểu, đi vào văn thơ, ca nhạc, tạo nên những tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều thể loại và ở mọi thời đại. Truyện cổ dân gian Sự tích con Lợn kể lại nguồn gốc loài vật này: ngày xưa, có nhà giàu hiếm muộn, sinh được chàng quý tử tên Hợi. Chàng được cưng chiều, ham ăn, thích ngủ, lười làm và luôn mong muốn được người phục dịch, hầu hạ. Khi mẹ chàng hấp hối, gọi chàng đến hỏi nguyện vọng để khi xuống suối vàng bà cầu xin và phù hộ cho, chàng nói ngay những mong ước như tính nết, sinh hoạt của mình. Nửa năm sau, chàng mất, Ngọc Hoàng và các thần linh hóa kiếp cho chàng thành một loài vật cùng tên, cùng tính… Còn Lục súc tranh công là truyện Nôm khuyết danh khá sinh động: 6 con vật nuôi trong nhà (lợn, gà, chó, ngựa, trâu, dê) tranh nhau công trạng của mình với người, với đời (trong đó lợn cho rằng mình có công lớn trong các việc quan, hôn, tang, tế), khiến gia chủ phải can thiệp, dàn hòa mãi mới yên, ghi nhận công riêng cho từng con vật. Ca dao, phong dao truyền thống thì vừa nhuần nhị, mượt mà, vừa vui nhộn, ẩn dụ với lợn khi nhắc về gia vị đặc trưng trong các món ăn: “Con gà cục tác lá chanh/Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi…”. Hay diễn tả sự bận bịu của người phụ nữ khi phải cùng lúc làm nhiều việc gia đình, đáp ứng nhiều nhu cầu, đòi hỏi: “Đương khi lửa tắt, cơm sôi/Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem…”.

Bài thơ chữ Nôm đầu tiên về lợn (Vịnh con heo) do Nguyễn Trãi sáng tác đầu thế kỷ 15, khắc họa đa dạng ngoại hình, tính nết và giá trị, ý nghĩa của loài heo: “Dài hàm, nhọn mũi, cứng lông/Được dưỡng vì chưng có thửa dùng/Lỗi hòa đàn, tinh Bắc Đẩu/Lang một điểm, thụy Liêu Đông/Chân khi mặt nước chưa hay lạt/…/Tiện chẳng hay bề biến hóa/Trương hai con mắt lại xem rồng”. Phùng Khắc Khoan, giữa thế kỷ 16, trên đường công cán Nghệ An ghi lại cảnh thả rông vật nuôi trong Đào Nguyên hành: “Trâu, bò, gà, lợn, dê, ngan/Đầy lũ đầy đàn rong thả khắp nơi”. Ở tập thơ Bức tranh quê (năm 1939) của nữ sĩ Anh Thơ, lợn hiện diện như hình ảnh sinh hoạt phổ biến của làng xã Việt Nam: “Người dậy cả, bà già lần thổi bếp/Thằng cu con dụi mắt quét quàng sân/Cùng trong lúc gà lồng kêu chiếp chiếp/Và lợn chuồng ủn ỉn giục cho ăn”. Lợn theo vào những bức tranh, làm sáng hồn thơ Hoàng Cầm nơi Bên kia sông Đuống (1948): “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Nhà văn hóa Phan Khôi lại ngẫm về cuộc sống thăng trầm loài lợn trong quan hệ với con người: “Mới thoát khỏi chuồng/Ngỡ là được thả/Ít ịt ít ịt/Ra dáng hỉ hả/Đánh đùng một cái/Kêu éc éc ngay/Bịt mồm bịt miệng/Trói chân trói tay/…/Từ đây đến dao/Có xa là bao/…/Con lợn thì thế/Con người thì sao?” (Kiếp lợn, 1958). Còn thi sĩ Vũ Hoàng Chương Đề tranh gà lợn đầy thơ-nhạc-họa và triết lý trong năm cuối của cuộc đời ông (Xuân Bính Thìn 1976): “Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành/Gà lợn om sòm rối bức tranh/Rằng vách có tai, thơ có họa/Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh/Mắt gà huynh đệ bao lần quáng/Lòng lợn âm dương một tấc thành/Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn/Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh”. Đầu thế kỷ 21, họa thơ bài Vịnh con heo của Nguyễn Trãi đã 600 năm, nhà thơ Nguyễn Quốc Thái cũng Vịnh con heo (2007) đầy cảm xúc, mới thấy nhiều điểm chung-riêng giữa lợn xưa với lợn nay: “Vừa mới sinh ra đã sướng rồi/An nhàn ngày tháng chỉ nằm chơi/May phần dinh dưỡng cơm nhiều bữa/Tốt số hình hài vóc lắm hơi/Xẻ thịt bàn ăn đền nghĩa chủ/Banh da tiệc rượu báo ơn đời/Lấy thân nuôi khắp cùng thiên hạ/Miệng thế còn chê: ngốc, biếng lười!”... Trẻ em Việt Nam thì khá quen thuộc với các bài hát về lợn (Con heo đất, Chú heo lười, Một bầy heo con, Bé heo xinh tròn) và thuộc lòng bài đồng dao vòng quanh Ba bà bán lợn.

Ở một lĩnh vực khác, tĩnh lặng nhưng phong phú, bền vững là hình tượng lợn (heo) trong kiến trúc, tạo hình, trang trí. Lợn thể hiện khá đa dạng trên tranh, bia, miếu, đình, đền, chùa, rạp, nhà… với đủ loại chất liệu (đất, đá, vữa, bạc, đồng, gỗ, mực…) và bằng nhiều kỹ thuật (tạc, đắp, nặn, xăm, chạm, khắc, đúc, nung, vẽ…). Hình tượng lợn xuất hiện trên nhiều vật dụng thời xưa của người dân và trong các đình chùa, đền miếu. Chẳng hạn, trên vì kèo gỗ của đình Phất Lộc (Thái Bình) và chùa Cự Trữ (Nam Định), đều có hình chạm nổi người mẹ vừa cho lợn ăn vừa cho con bú. Lợn cũng là hình ảnh phổ biến trong các làng tranh nổi tiếng: tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) đặc trưng với các bức Lợn đàn, Lợn nái, Lợn âm dương, Lợn ăn lá ráy, tranh Kim Hoàng (Hà Nội) lại ấn tượng với bức Lợn độc… Còn đồ gốm có hình tượng lợn là sản phẩm thấy ở nhiều làng gốm cổ truyền: Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng (Bắc Ninh), Thụy Lôi (Hà Nam), Gia Thủy (Ninh Bình), Thanh Hà (Quảng Nam), Bàu Trúc (Ninh Thuận), Tân Phước Khánh (Bình Dương)… Với đồ mỹ nghệ, hình tượng lợn cũng phổ biến không kém, như một biểu tượng của niềm vui, sự ngộ nghĩnh, sung túc và tài lộc, được đúc, dập, khắc, chạm từ vàng, bạc, đồng, đá, gỗ, tre. Trong nhiều gia đình Việt Nam, “con lợn tiết kiệm” như thần tài giữ của, chế tạo rỗng ruột từ đất nung, gốm sứ, nhựa dẻo, gỗ tre, kim loại, là nơi cất trữ tiền dành dụm của các thành viên gia đình (nhất là trẻ em).

Hình ảnh lợn (heo) trở nên sinh động, gần gũi nhất qua những sinh hoạt ẩm thực, văn hóa và lễ hội truyền thống. “Mâm xôi (nấu, đồ) - con lợn (luộc, quay)” là các món ăn và đồ lễ dùng phổ biến trong các đám lễ hội, hiếu hỷ, liên hoan của thôn xóm, làng xã. Nhiều làng nuôi lợn thờ, đến ngày lễ tế thành hoàng năm mới thì đem “ông lợn”, “ông ỉ” này ra tế sinh, cúng xong sẽ chia phần như chia phúc lộc cho mọi thành viên trong làng. Thủ lợn (đầu heo) là món sính vật quan trọng trong mâm cúng tại những buổi lễ long trọng và đặc biệt của người dân Việt Nam. Với lễ cưới thời xưa, mâm lễ vật của nhà gái phải có một thủ lợn nguyên lành; sau đêm tân hôn, nếu phát hiện cô dâu đã thất tiết trước lúc động phòng, nhà trai sẽ xẻo tai lợn rồi đem thủ lợn mất tai trả lại nhà gái như một sự cảnh báo bắt buộc… Lợn cũng du nhập phong tục tập quán của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc, thể hiện qua những sinh hoạt cộng đồng vui vẻ mà độc đáo. Đụng lợn ngày Tết là một nét đẹp văn hóa và đoàn kết xưa nay trong đón mừng năm mới: 4-8 gia đình ở gần nhau sẽ cùng chung nuôi hoặc mua rồi giết mổ, chia nhau một con lợn theo phần, theo góc để ăn Tết. Lễ hội chém lợn là phong tục đặc biệt của làng Ném Thượng (Bắc Ninh), tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hàng năm tưởng nhớ thành hoàng làng (vốn là một vị tướng) đã chém lợn nuôi quân, đồng thời cầu mong một năm mới phát đạt, may mắn. Sau tiết mục hát quan họ, đến 10 giờ sáng là nghi lễ rước lợn quanh làng. Con lợn nặng khoảng tạ rưỡi, nhốt trong cũi hồng, được đưa rước rồi quay về sân đình. Tại đây, lợn bị lật ngửa, 4 chân buộc chặt giăng ra 4 phía, một người oai nghi đóng vai vị tướng 57 tuổi sẽ làm lễ phất cờ, một đao thủ sẽ dùng đao sắc chém đứt ngang con lợn, tiết văng ra đầy sân sẽ được người xem động chạm, lấy về như lộc năm mới! Ở Tây Nguyên, rất thông dụng tục lệ đốt heo: trong lễ hội, những người tham dự đốt một đống củi và lồ ô khô. Con heo sau khi bị đập chết sẽ được dội nước cho ướt khắp thân mình, rồi đặt trên đống lửa và lật qua lật lại. Sau đó, heo được lấy xuống, dùng cật nứa cạo tàn lông thay vì dùng dao, rồi mới dùng dao mác mổ thịt, chia phần cho mọi người hoặc chế các món ăn. Ở Nam Bộ, cúng đầu heo là phong tục đặc biệt được tiến hành trong những việc quan trọng của gia chủ. Người ta lấy thịt, mỡ, da và các nội tạng heo, mỗi thứ một ít, nấu một nồi cháo với gạo trắng. Tiếp đó, đầu heo được làm sạch, cho vào nồi cháo. Khi cháo chín nhừ thì đầu heo cũng chín tới, được vớt ra, bày trang trí trên mâm cùng 3, 5 hoặc 7 bát (chén) cháo, nhang đèn thắp lên và gia chủ bắt đầu khấn vái hành lễ. Người Thái ở Yên Châu (Sơn La) có tục mừng thủ lợn đám cưới: đúng ngày cưới, sau khi tổ chức xong tiệc cưới buổi trưa tại gia đình nhà gái, chiều tối cô dâu chú rể cùng đại diện hai bên gia đình sẽ đem một thủ lợn và các lễ vật sang nhà ông bà ngoại cô dâu để tạ ơn. Nếu ông bà ngoại đã mất, thì bác trai hoặc cậu ruột cô dâu sẽ thay mặt nhận lễ và bên ngoại sẽ tổ chức bữa tối thân mật mừng hạnh phúc cho vợ chồng con cháu. Cũng trong việc cưới, tục thách cưới bằng thịt lợn của người Tày ở Lạng Sơn khiến nhà trai phải chuẩn bị nhiều lễ vật, đặc biệt là thịt lợn (khoảng 4 tạ thịt lợn, trong đó phải đem sang nhà gái ít nhất 1 tạ). Người Sán Chỉ ở Bình Liêu (Quảng Ninh) thì có tục nhận cha mẹ nuôi bằng thịt lợn. Theo đó, khi con cái đến tuổi trưởng thành, thường phải nhận cha mẹ nuôi để có thêm người bảo trợ, chia sẻ. Thủ tục và lễ vật để được nhận cũng đơn giản, nhưng không thể thiếu thịt lợn (khoảng 6 kg). Người Cơ Tu ở Quảng Nam rất chuộng nanh heo, coi đó như một đồ trang sức quý giá và bùa hộ mệnh may mắn. Họ không chỉ săn heo rừng để lấy nanh, mà còn tuyển chọn, nuôi dưỡng kỳ công hàng chục năm những con heo nhà (heo đực) để chúng có thể cho bộ nanh hoành tráng như ý. Người Jrai ở Gia Lai có tục góp lợn làm đám ma rất phổ biến, khiến mỗi khi trong làng có người mất, nhiều hộ gia đình, hàng xóm góp lợn nhà mình vào đám ma đó, có đám ngốn tới hàng trăm con lợn! Người Hà Nhì ở Tây Bắc có tục xem bói bằng gan lợn thiến. Mỗi gia đình tết đến thường giết một con lợn thiến để đón mừng. Ngay sau khi mổ thịt, lá gan tươi của lợn được họ lấy ra, rửa sạch rồi đưa lên, cùng nhau bói vận hạn gia đình trong năm mới qua màu sắc, múi gan, đường gan, chỉ gan (tương tự xem bói chân gà của người Kinh).

Không chỉ là nguồn thực phẩm và dược liệu đa dạng, phổ biến, lợn (heo) còn được nuôi để làm cảnh, dùng đánh hơi (vì mũi chúng rất thính), nghiên cứu khoa học và nhiều công việc khác. Chúng cũng góp mặt trong các hoạt động văn hóa, thể thao. Do dễ huấn luyện, lợn được dạy làm các trò: đi bằng hai chân sau, leo cầu, nhảy qua vòng lửa, kêu đếm số… trong các đoàn, gánh, nhóm xiếc lợn. Còn đua heo cũng là một trò chơi thể thao truyền thống hấp dẫn trên khắp miền đất nước, ngày nay được chú trọng phục vụ mục đích giải trí, du lịch của du khách, như tại khu Yang Bay (Khánh Hòa), làng du lịch các dân tộc thiểu số Nhuận Đức và trường đua Phú Thọ (thành phố Hồ Chí Minh), làng sinh thái Mỹ Khánh (Cần Thơ)…

      Anh Hùng