![]()
Hội nghi đã tiến hành bỏ phiếu kín lần lượt bầu Ban Thường vụ gồm 03 Luật sư Trương Trọng Nghĩa, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Hậu.
Sau khi có kết quả bầu Ban Thường vụ, Hội nghị tiến hành bầu Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy nhiệm kỳ 2020-2025.
Luật sư Trương Trọng Nghĩa được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Luật sư Nguyễn Văn Hậu được bầu giữ chức Phó Bí thư Đảng uỷ Đoàn Luật sư nhiệm kỳ 2020-2025 với số phiếu tuyệt đối, đạt tỷ lệ 100%.
Luật sư Trương Trọng Nghĩa (tên khai sinh là Trương Đức Cần), sinh ngày 28/02/1953, là một Luật sư nổi tiếng tại Việt Nam, là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, khóa XIV (nhiệm kì 2016-2021) thuộc Đoàn đại biểu TP. Hồ Chí Minh. Luật sư Nghĩa từng là Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam từ khi thành lập (2009 – 2014), được bầu lại làm Ủy viên Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhiệm kỳ thứ hai 2014 – 2019. Ông cũng là Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh nhiệm kỳ thứ hai (2013 – 2018) và nhiệm kỳ 2019 - 2024. Luật sư Nghĩa là một trong các Phó Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam được thành lập vào tháng 7/2016; cựu thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải; cựu Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC). Luật sư Trương Trọng Nghĩa là ứng cử viên của Hội Luật gia Việt Nam được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa XIII (2011 – 2016). Ông được bầu vào Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, và tiếp tục được bầu lại vào Quốc hội và Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Khóa XIV nhiệm kỳ 2016 – 2021. Là thành viên Ủy ban Tư pháp, ông đã tham gia vào việc xem xét các báo cáo quan trọng của Chính phủ về các vấn đề tư pháp trước khi trình ra Quốc hội tại các kỳ họp, tham gia các cuộc giám sát định kỳ hoặc đột xuất của Ủy ban Tư pháp đối với các bộ và địa phương. |
Hội nghị cũng tiến hành bầu Ủy ban kiểm tra, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Đoàn Luật sư nhiệm kỳ 2020-2025.
Kết quả Luật sư Nguyễn Văn Hậu giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra, các thành viên Ủy ban kiểm tra còn lại là Luật sư Lượng Văn Hồng (Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ 2), Luật sư Nguyễn Văn Đức (Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ 3), Luật sư Hồ Nguyên Lễ (Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ 5), Luật sư Nguyễn Thị Anh Đào (Bí thư Chi bộ 9).
Như vậy, sau khi tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh (vòng 2) nhiệm kỳ 2020-2025, các chức danh chủ chốt của Đảng ủy, Ủy ban kiểm tra đã được kiện toàn.
PV
Luật sư Trương Trọng Nghĩa tự ứng cử Đại biểu Quốc hội ở TP. Hồ Chí Minh
2. Đề xuất áp dụng trong giao dịch điện tử với cơ quan nhà nước và cả khối tư nhân
(LSVN) - Bộ Thông tin và Truyền thông đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân đối với dự thảo Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch điện tử, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn thông tin trong giao dịch điện tử.
![]()
Dự thảo Nghị định quy định về danh tính số, định danh và xác thực điện tử; dịch vụ định danh và xác thực điện tử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về danh tính số, định danh và xác thực điện tử tại Việt Nam.
“Định danh điện tử” là hoạt động tạo lập, gắn danh tính số với chủ thể danh tính số và quản lí danh tính số.
“Xác thực điện tử” là hoạt động xác minh người sử dụng danh tính số đúng là chủ thể danh tính số.
Về phạm vi điều chỉnh, dự thảo Nghị định quy định không chỉ đối với định danh và xác thực điện tử trong giao dịch điện tử với cơ quan nhà nước, mà còn điều chỉnh chung cho các giao dịch điện tử có yêu cầu về định danh điện tử và xác thực điện tử ra toàn xã hội.
Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong các giao dịch điện tử với cơ quan nhà nước và các giao dịch trong khối tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng; đảm bảo tính tiện lợi, an toàn, duy trì sự liền mạch của các giao dịch điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định cụ thể về thành phần danh tính số; mức độ đảm bảo của danh tính số; giá trị sử dụng của danh tính số; yêu cầu mức độ đảm bảo của danh tính số trong giao dịch điện tử; quy định về định danh điện tử; xác thực điện tử; phân loại yếu tố xác thực và phương tiện xác thực.
Đồng thời quy định rõ việc cung cấp và sử dụng dịch vụ định danh và xác thực điện tử; đăng ký, tạo lập danh tính số; lưu trữ, cập nhật danh tính số; cung cấp, quản lý phương tiện xác thực; thay đổi mức độ đảm bảo của danh tính số; tạm dừng, thu hồi danh tính số; cung cấp và sử dụng thông tin cá nhân.
HỒNG HẠNH
Tài liệu giảng dạy mầm non phải dễ hiểu, dễ làm
3. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi vi phạm hành chính trong giao dịch thuế bằng phương thức điện tử
(LSVN) - Xử lý hành vi vi phạm hành chính trong giao dịch thuế bằng phương thức điện tử được quy định cụ thể tại Điều 32 Thông tư 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 của Bộ tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế, trong đó, chứng từ điện tử.
![]()
Theo đó, Cơ quan thuế lập và gửi Biên bản vi phạm hành chính về xử phạt vi phạm hành chính về thuế bằng phương thức điện tử:
Về đăng ký thuế:
Người nộp thuế khi có hành vi vi phạm về thời hạn đăng ký thuế; thời hạn thông báo đăng ký thay đổi thông tin đăng ký thuế; thời hạn thông báo đăng ký chấm dứt hiệu lực mã số thuế thì cơ quan thuế căn cứ ngày nộp hồ sơ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Thông tư này được ghi trên thông báo tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế/hồ sơ đăng ký thay đổi thông tin đăng ký thuế/hồ sơ đăng ký chấm dứt hiệu lực mã số thuế (theo mẫu số 01-1/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư này) và thời hạn quy định tại Luật Quản lý thuế và văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế để xác định số ngày chậm nộp hồ sơ và lập Biên bản vi phạm hành chính về xử phạt vi phạm hành chính về thuế gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
Khoản 2 Điều 5 Thông tư 19/2021/TT-BTC quy định về Gửi thông báo, quyết định, văn bản điện tử của cơ quan thuế, cụ thể: ... 2. Cơ quan thuế gửi các quyết định, thông báo và văn bản khác cho người nộp thuế bằng phương thức điện tử như sau: a) Các quyết định, thông báo và văn bản khác bằng điện tử của cơ quan thuế được gửi đến tài khoản giao dịch thuế điện tử của người nộp thuế tại Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế và theo địa chỉ thư điện tử của người nộp thuế đã đăng ký với cơ quan thuế theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 10 Thông tư này. Đối với NNT là cá nhân đăng ký nhận kết quả qua điện thoại di động, cơ quan thuế gửi tin nhắn để thông báo cho người nộp thuế biết qua số điện thoại di động đã đăng ký với cơ quan thuế về việc gửi các quyết định, thông báo và văn bản đó. b) Trường hợp người nộp thuế đăng ký và thực hiện giao dịch điện tử qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cơ quan thuế gửi đến Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi cho người nộp thuế. c) Trường hợp người nộp thuế thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa liên thông”, thực hiện giao dịch điện tử qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cơ quan thuế gửi đến Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi cho người nộp thuế. d) Trường hợp người nộp thuế đăng ký và thực hiện giao dịch điện tử qua tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN thì cơ quan thuế gửi đến hệ thống trao đổi thông tin của tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN để tổ chức cung cấp dịch vụ T- VAN gửi cho người nộp thuế; đồng thời gửi đến tài khoản giao dịch thuế điện tử của người nộp thuế tại Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế. đ) Trường hợp người nộp thuế ủy quyền cho tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế (sau đây gọi là đại lý thuế) thực hiện giao dịch thuế điện tử theo quy định của Luật Quản lý thuế thì cơ quan thuế thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này, đồng thời gửi đến địa chỉ thư điện tử của đại lý thuế. e) Trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện khai thay, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế (sau đây gọi là Nghị định số 126/2020/NĐ-CP) thì cơ quan thuế gửi đến địa chỉ thư điện tử của tổ chức, cá nhân khai thay; trường hợp người nộp thuế có tài khoản giao dịch thuế điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thì được gửi đồng thời đến địa chỉ thư điện tử của người nộp thuế. g) Các quyết định, thông báo và văn bản khác của cơ quan thuế đã được gửi cho người nộp thuế thông qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN được lưu trữ trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế. h) Người nộp thuế được sử dụng tài khoản giao dịch thuế điện tử do Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế cấp để tra cứu trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế các quyết định, thông báo và văn bản khác của cơ quan thuế đã gửi cho người nộp thuế thông qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN. |
Về khai thuế:
Người nộp thuế khi có hành vi vi phạm về chậm nộp hồ sơ khai thuế thì cơ quan thuế căn cứ thời điểm xác nhận nộp hồ sơ khai thuế điện tử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Thông tư này được ghi trên Thông báo tiếp nhận hồ sơ khai thuế điện tử của cơ quan thuế gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này (theo mẫu số 01-1/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư này) nếu hồ sơ khai thuế được cơ quan thuế chấp nhận tại Thông báo chấp nhận hồ sơ điện tử của cơ quan thuế gửi cho người nộp thuế (theo mẫu số 01-2/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư này) để xác định số ngày chậm nộp hồ sơ và lập Biên bản vi phạm hành chính về xử phạt vi phạm hành chính về thuế gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
Người nộp thuế tiếp nhận, giải trình Biên bản vi phạm hành chính về xử phạt vi phạm hành chính về thuế bằng phương thức điện tử của cơ quan thuế:
Người nộp thuế có trách nhiệm tiếp nhận Biên bản vi phạm hành chính về xử phạt vi phạm hành chính về thuế bằng điện tử do cơ quan thuế gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
Chậm nhất 05 ngày kể từ ngày lập Biên bản xử phạt vi phạm hành chính về thuế của cơ quan thuế và được cơ quan thuế gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này; người nộp thuế được giải trình bổ sung các nội dung nêu tại Biên bản xử phạt vi phạm hành chính về thuế và gửi cho cơ quan thuế theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Thông tư này; hoặc gửi văn bản, hồ sơ giải trình bổ sung thông tin tài liệu bằng giấy đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp; trường hợp người nộp thuế thực hiện giải trình trực tiếp thì trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày lập Biên bản xử phạt vi phạm hành chính về thuế của cơ quan thuế và được cơ quan thuế gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này, người nộp thuế phải gửi văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến cơ quan thuế lập Biên bản xử phạt vi phạm hành chính về thuế.
Cơ quan thuế ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế bằng phương thức điện tử:
- Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế gửi Thông báo tiếp nhận hồ sơ giải trình, bổ sung thông tin tài liệu điện tử (theo mẫu số 01-1/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư này) cho người nộp thuế chậm nhất 15 phút kể từ khi nhận được hồ sơ giải trình, bổ sung thông tin tài liệu điện tử của người nộp thuế.
- Sau thời hạn giải trình nêu tại khoản 2 Điều này, cơ quan thuế căn cứ hành vi vi phạm hành chính thuế của người nộp thuế đã nêu trong Biên bản vi phạm hành chính thuế và các văn bản, hồ sơ giải trình bổ sung thông tin tài liệu về các tình tiết giảm nhẹ của người nộp thuế (nếu có) để ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế và gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
Trường hợp không chấp nhận nội dung giải trình, bổ sung thông tin tài liệu của người nộp thuế thì cơ quan thuế gửi Thông báo không chấp nhận giải trình, bổ sung thông tin tài liệu (theo mẫu số 01-2/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư này) đồng thời cùng với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
- Người nộp thuế có trách nhiệm thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế của cơ quan thuế đã gửi cho người nộp thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
MINH HIỀN
4. Giải quyết vụ án ly hôn khi không rõ địa chỉ của bị đơn
(LSVN) - Hiến pháp năm 2013 quy định “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.” Điều này có nghĩa là các bên trong quan hệ hôn nhân có quyền tự do kết hôn với người mà mình mong muốn gắn bó miễn là đáp ứng đủ điều kiện của pháp luật và cũng có quyền tự do trong việc lựa chọn tiếp tục hay chấm dứt quan hệ hôn nhân khi giữa vợ chồng đã có những mâu thuẫn sâu sắc và đời sống chung không thể kéo dài. Lúc này, ly hôn được coi là tất yếu, khách quan khi hôn nhân đã “chết”. Tuy việc lựa chọn ly hôn là quyền tự do của cá nhân nhưng cần tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng. Và trong bối cảnh quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng thì việc thực hiện quyền này đang bị hạn chế. Bài viết này tập trung giải quyết vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau trong vụ án ly hôn khi không rõ địa chỉ của bị đơn.
![]()
Ly hôn là quyền của cá nhân khi xét thấy cần chấm dứt cuộc sống hôn nhân với những mâu thuẫn sâu sắc và đời sống chung không thể kéo dài. Đây là quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc thực hiện quyền này đang bị vướng bởi các quy định của pháp luật tố tụng, nhất là trong trường hợp một bên xin ly hôn khi chưa xác định được địa chỉ của bị đơn.
Hiện nay, xảy ra thực trạng nhiều vụ án ly hôn có một bên vợ hoặc chồng sống ly thân nhiều năm hoặc bỏ đi làm thuê ở các tỉnh, thành phố lớn mà không cho bên còn lại biết địa chỉ. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn do không còn cư trú tại địa chỉ nguyên đơn ghi trong đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, đang tồn tại các luồng quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong trường hợp này, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ mới của bị đơn theo điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTDS) năm 2015 nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04 ngày 05/05/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC).
Quan điểm thứ hai thì cho rằng Tòa án thụ lý và thực hiện tống đạt văn bản thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn theo đoạn 2 khoản 5 Điều 177 BLTTDS năm 2015.
Quan điểm thứ ba cho rằng, để người vợ hoặc chồng ly hôn trong trường hợp này thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất tích trước khi yêu cầu giải quyết ly hôn hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết. Thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết ghi trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Giải pháp nào cho vấn đề trên?
Chúng ta cùng xem xét các quan điểm trên dưới góc độ pháp lý và thực tiễn.
Thứ nhất, quan điểm cho rằng Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04 ngày 05/05/2017 của HĐTP TANDTC[1]. Tức là nếu thuộc quy định tại điểm a và b khoản 2 Điều 6 Nghị quyết này thì Tòa án không đình chỉ mà tiếp tục giải quyết vụ án. Rất tiếc, tại điểm a Điều 6 Nghị quyết này hướng dẫn các trường hợp là cá nhân trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản[2]. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam dường như không coi hôn nhân là một loại giao dịch hoặc hợp đồng. Như vậy, không thể áp dụng điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04 ngày 05/05/2017 của HĐTP TANDTC cho trường hợp này. Do đó, hướng dẫn trên là không thuyết phục.
Thứ hai, với quan điểm cho rằng một trong hai bên vợ/chồng có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất tích trước khi yêu cầu giải quyết ly hôn hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết. Thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết ghi trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tác giả cho rằng thực tế khó có thể áp dụng chế định tuyên bố mất tích đối với trường hợp này. Bởi lẽ, trong các vụ việc này, một bên vợ hoặc chồng chỉ không thường xuyên có mặt tại nơi cư trú chứ không phải mất tích. Thực tế họ vẫn về thăm nhà, thăm quê, chỉ là họ không liên lạc với vợ/chồng của mình và không muốn cung cấp địa chỉ cư trú của mình.
Theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, để tuyên bố một người mất tích phải hội đủ các điều kiện gồm: người đó phải biệt tích 02 năm liền trở lên và mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết.
Đối chiếu với các điều kiện trên, nếu một bên vợ/chồng yêu cầu Tòa án tuyên một người là mất tích thì tỉ lệ được chấp nhận là rất thấp. Điều này dẫn đến hậu quả là một bên vợ/chồng không thể thực hiện được quyền ly hôn của mình.
Thứ ba, quan điểm cho rằng trong trường hợp này, Tòa án thụ lý và thực hiện tống đạt văn bản thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn theo đoạn 2 khoản 5 Điều 177 BLTTDS 2015. Tác giả đồng tình và ủng hộ quan điểm này bởi các lý do sau đây:
Một là, Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.”
Như vậy, có thể hiểu rằng nếu người khởi kiện đã cung cấp đúng địa chỉ của người bị khởi kiện nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú thì Tòa phải thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung. Thủ tục chung ở đây bao gồm thủ tục về cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 5 Điều 177 BLTTDS.
Hai là, không thể áp dụng điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017 của HĐTP TANDTC vì như đã phân tích, quy định này áp dụng đối với các bên trong gia dịch, hợp đồng bằng văn bản. Quan hệ hôn nhân không được thừa nhận như một giao dịch hay hợp đồng bằng văn bản. Hơn nữa, việc đình chỉ giải quyết trong trường hợp này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của nguyên đơn, vô hình chung trói buộc họ trong ngục tù của cuộc hôn nhân không hạnh phúc, cản trở họ tìm kiếm hạnh phúc mới.
Ba là, nhìn rộng ra, chúng ta có thể thấy, đối với trường hợp ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ này, ngày 26/11/2018, TANDTC đã có Công văn số 253/TANDTC-PC hướng dẫn về việc này như sau: “Trường hợp người Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử, Tòa án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng..”
Như vậy, có thể thấy cùng là việc nguyên đơn chỉ cung cấp được địa chỉ cuối cùng bị đơn cư trú, không rõ địa chỉ hiện tại của bị đơn và cùng với một mục đích là bảo vệ quyền nhân thân cơ bản trong hôn nhân và gia đình được pháp luật bảo vệ nhưng một nội dung thì đã được hướng dẫn cụ thể[3]. Vậy chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng tương tự cho trường hợp đang nghiên cứu.
Thực ra, trước đây, tại Trao đổi nghiệp vụ năm 2012, ngành Tòa án đã có hướng xử lý như trên, tức là trường hợp hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2003 cũng tương tự như trường hợp cố tình giấu địa chỉ của bị đơn ở trong nước vì vậy có cơ sở để áp dụng hướng dẫn này thụ lý vụ án xin ly hôn và nếu có đủ căn cứ theo Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình thì cho ly hôn. Hướng giải quyết này đưa ra là hợp lý vì vừa đảm bảo quyền lợi của bị đơn được biết về việc giải quyết vụ án, lại vừa đảm bảo cho nguyên đơn được quyền ly hôn khi không thể ly hôn khi vợ hoặc chồng không đủ điều kiện tuyên bố mất tích.
Tuy nhiên, để thống nhất nhận thức và áp dụng trong các cơ quan tố tụng, trong lần xây dựng Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP tới đây, TANDTC cần đưa lại nội dung hướng dẫn này vào.
Trên đây là một vài quan điểm cá nhân về cách giải quyết trong các vụ án ly hôn khi không xác định được địa chỉ của bị đơn. Đây là vấn đề phức tạp, có nhiều ý kiến trái chiều, do đó, tôi rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, chuyên gia và bạn đọc xung quanh vấn đề này./.
[1] Đây là quan điểm được Vụ 14 VKSNDTC giải đáp trong Giải đáp số 5814/VKSTC-V14 về nhận thức, áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. [2] Không áp dụng điểm b khoản 2 Điều 6 vì quy định này áp dụng đối với tổ chức. [3] Thực ra nội dung Công văn 253 là kế thừa toàn bộ quy định tại điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần II Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của HĐTP TANDTC. |
Luật sư TRẦN MINH TUẤN
Công ty Luật TNHH MTV Phú Quý

