Theo nội dung Bản án số 158/2020/HS-PT ngày 12/5/2020 của TAND Cấp cao tại Hà Nội, Phan Văn Anh Vũ có trách nhiệm bồi thường hơn 3.100 tỉ đồng và duy trì Lệnh kê biên đối với 28 tài sản tại TP. Đà Nẵng để bảo đảm thi hành án.
Trong đơn gửi đến các cơ quan chức năng, bà Nguyễn Thu Hiền (vợ Vũ) cho rằng, 28 tài sản trên không phải một mình ông Vũ đứng tên mà là tài sản đồng sở hữu với bà Hiền. Trong đó, có 23 tài sản ông Vũ cùng bà Hiền đứng tên chung và 03 tài sản đứng tên công ty Cổ phần xây 79, một tài sản đứng tên Công ty cổ phần xây dựng Bắc Nam 79, và một tài sản đứng tên công ty TNHH I.V.C.
Để thực thi theo Bản án 158, Cục THADS TP. Đà Nẵng và chấp hành viên đã ban hành nhiều quyết định và các văn bản yêu cầu vợ chồng ông Vũ và các công ty phải giao các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để thi hành án cho Phan Văn Anh Vũ như: Quyết định thi hành án chủ động; thông báo về việc lựa chọn xử lý tài sản kê biên; thông báo về việc xử lý tài sản kê biên; thông báo giao nộp Giấy chứng nhận tài sản kê biên Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất…
Theo phản ánh của bà Hiền, đại diện các công ty, Cục THADS TP. Đà Nẵng và Chấp hành viên không gửi bất kỳ thông báo nào liên quan đến việc thực hiện xác định phần sở hữu của bà Hiền và chồng là Phan Văn Anh Vũ đối với từng tài sản đã được Cơ quan CSĐT - Bộ Công an kê biên theo đúng trình tự thủ tục luật định. Bà Hiền cho rằng, 23 tài sản mà cơ quan thi hành án tiến hành kê biên là tài sản hợp pháp của gia đình, được hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của bà và Phan Văn Anh Vũ, quyền lợi của bà được pháp luật bảo vệ.
Trong đơn khiếu nại, bà Hiền viện dẫn Điều 74, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014; Nghị định số 62/2015/NĐ-CP yêu cầu phải xác định phần sở hữu của vợ, chồng trước khi mở cửa, thẩm định giá, xử lý tài sản chung của vợ chồng người phải thi hành án. Trong đó quy định cụ thể, đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết.
“Cục THADS TP. Đà Nẵng và Chấp hành viên đã bỏ qua thủ tục quan trọng trên. Đây là hành vi không chỉ vi phạm nghiêm trọng Luật Thi hành án dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình mà còn xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của tôi”, đơn khiếu nại của bà Hiền viết.
Phía đại diện Công ty Cổ phần xây Dựng Bắc Nam 79 cũng cho rằng, tài sản mà cơ quan thi hành án xử lý sau kê biên là tài sản mua hợp pháp của công ty. Bị án Vũ chỉ là người có cổ phần trong công ty, ngoài bị án Vũ ra, trong công ty còn rất nhiều cổ đông khác, không thể lấy toàn bộ tài sản của các cổ đông để thực hiện cho việc thi hành án của Vũ. Việc không xác định phần sở hữu của ông Vũ trong khối tài sản chung với các cổ đông khác trước khi xử lý các tài sản chung là hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu đối với tài sản của các cổ đông được ghi nhận và bảo vệ theo Luật Doanh nghiệp.
Dù đã kê biên vẫn phải phân định tài sản chung Ở góc độ pháp lý, Luật sư Trần Minh Hải (Công ty Luật BASICO) nêu quan điểm: "Trong vụ án Phan Văn Anh Vũ, cơ quan thi hành án không thể lấy lý do bản án đã kê biên tài sản thì thi hành án có thể làm tắt bỏ qua bước phân định tài sản chung. Bởi cả Luật và Nghị định đều yêu cầu việc phân định rõ phần quyền sở hữu đối với tài sản chung phải rõ ràng trước khi xử lý tài sản. Việc xử lý tài sản thuộc trách nhiệm của thi hành án và nếu thi hành án lược bỏ thủ tục phân định tài sản chung trước khi xử lý, quyền lợi hợp pháp của những người đồng sở hữu tài sản bị xâm phạm". |
VÂN KHÁNG