Một số bất cập của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

21/07/2020 16:51 | 3 năm trước

(LSO) - Sau gần 04 năm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đi vào đời sống đã có tác động tích cực đến việc đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Luật đã tiếp tục góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực, quan hệ cụ thể, hệ thống quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình còn chưa kịp thời hoàn thiện, chưa bảo đảm tính bao quát, tính đầy đủ về cơ sở pháp lý trong giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh từ thực tiễn.

Ảnh minh họa.

Về xây dựng danh mục tập quán về hôn nhân và gia đình. Thực hiện Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, các địa phương đã ban hành kế hoạch triển khai xây dựng danh mục tập quán về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, về cơ bản các địa phương không xây dựng được danh mục tập quán về hôn nhân và gia đình được áp dụng ở địa phương. Một trong số các khó khăn được các địa phương đề cập, đó là: còn có nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình thực hiện, do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn; địa phương đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác định rõ nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt danh mục các tập quán về hôn nhân và gia đình được ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản cá biệt; tập quán được áp dụng cho những quan hệ cụ thể khi không có quy định của pháp luật, do đó việc xác định tập quán nào được áp dụng hay không được áp dụng cần có vai trò quan trọng của tòa án.

Về tuổi kết hôn. Việc Luật Hôn nhân và gia đình quy định tuổi kết hôn của nữ là đủ 18 tuổi, tuổi kết hôn của nam là đủ 20 tuổi về cơ bản là sự kế thừa của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, góp phần làm cho việc kết hôn và quan hệ hôn nhân được lành mạnh, góp phần thực hiện tốt chức năng xã hội của hôn nhân.

Tuy nhiên, việc quy định tuổi kết hôn chênh lệch của nam và nữ cũng đặt ra vấn đề về bảo đảm bình đẳng giới, về sự đồng bộ với năng lực hành vi dân sự của người thành niên trong Bộ luật Dân sự. Thực tiễn áp dụng quy định về tuổi kết hôn cho thấy tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra phổ biến ở khu vực miền núi, dân tộc thiểu số. Bà con vùng đồng bào dân tộc hiểu quy định của pháp luật về tuổi kết hôn nhưng do phong tục, tập quán đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình thường dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm, nên mặc dù việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán, họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên công nhận đó là một cặp vợ chồng.

Về kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. Quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời khi áp dụng tại các vùng dân tộc thiểu số cho thấy tính khả thi còn chưa cao, vẫn còn tình trạng kết hôn cận huyết; có địa phương còn xảy ra tình trạng nam nữ chỉ kết hôn với những người cùng dòng họ...

Về năng lực hành vi dân sự trong kết hôn. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì người bị mất năng lực hành vi dân sự không được kết hôn và theo Điều 22 Bộ luật Dân sự thì một người chỉ bị mất năng lực hành vi dân sự khi tòa án tuyên bố. Do đó, trong thực tiễn áp dụng vẫn còn có ý kiến cho rằng, người chưa bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự mặc dù mắc bệnh tâm thần hay bệnh khác không làm chủ được hành vi thì vẫn được kết hôn, nhưng khi giải quyết quan hệ nhân thân có liên quan, một số tòa án lại tuyên bố là việc kết hôn trái pháp luật.

Về vấn đề hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Luật Hôn nhân và Gia đình không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng đồng thời không can thiệp vào việc sống chung giữa họ, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cũng đã bãi bỏ việc xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi tổ chức lễ cưới, việc chung sống giữa những người cùng giới tính. Đây là sự tiến bộ lớn trong cả trong nhận thức và trong áp dụng pháp luật về tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người đồng tính nói riêng, cộng đồng người yếu thế nói chung.

Tuy nhiên, để thực hiện, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của những cá nhân này, thể chế về các vấn đề liên quan cũng cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn trên nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm sự bình đẳng, chống phân biệt đối xử, có cơ chế pháp lý phù hợp với quan hệ sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính, hạn chế được những nguy cơ, rủi ro pháp lý phát sinh với họ và những quan hệ xã hội khác liên quan. Để giải quyết vấn đề này, hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn giải pháp công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhằm bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng, mong muốn được kết hôn với những người có cùng giới tính để đồng cảm, chia sẻ, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.

Về vấn đề nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình không công nhận hôn nhân của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, để bảo vệ được các quyền, lợi ích chính đáng của họ, đặc biệt của con, phụ nữ, hạn chế những vấn đề xã hội liên quan, Luật đã bổ sung cơ chế pháp lý giải quyết cụ thể hậu quả của việc chung sống theo nguyên tắc quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ, tôn trọng sự thỏa thuận, bình đẳng trong giải quyết các vấn đề về tài sản, sở hữu, giao dịch, trong đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, của người làm công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung.

Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, có ý kiến đề nghị cần xem xét tiếp tục thừa nhận hôn nhân thực tế để phù hợp với thực tiễn đời sống hôn nhân và gia đình tại các khu vực miền núi, dân tộc ít người. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng không nên thừa nhận hôn nhân thực tế nhưng ngoài các nguyên tắc được quy định tại Luật thì cần có hướng dẫn cụ thể hơn về áp dụng Bộ luật Dân sự, pháp luật khác có liên quan trong trường hợp giữa người chung sống không có thỏa thuận về giải quyết tài sản, giao dịch,...

Về chế độ tài sản của vợ chồng. Luật đã bổ sung quy định vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định, qua đó, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau và của vợ chồng đối với gia đình; tôn trọng quyền tự do cá nhân của vợ, chồng; bảo đảm an toàn pháp lý và sự ổn định trong các giao dịch, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.... Tuy nhiên, một số vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, làm rõ hơn, như: cơ chế công khai về thỏa thuận của vợ chồng trong xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận; các loại tài sản khác, các quan hệ nghĩa vụ, hợp đồng được quy định tại các luật điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể về đất đai, chứng khoán, vốn góp tại doanh nghiệp, đối tượng sở hữu trí tuệ… cần được quy định cụ thể hơn về sở hữu của vợ chồng trong quan hệ liên quan.

Về vấn đề ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình đã có những quy định minh bạch, đầy đủ, cụ thể hơn về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn, về cơ chế giải quyết ly hôn, về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng khi ly hôn và của cha mẹ và con khi ly hôn, cơ chế xử lý tài sản của vợ chồng khi ly hôn liên quan đến người thứ ba, liên quan đến tài sản đưa vào kinh doanh. Qua đó, bên cạnh việc bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, con thì cũng bảo đảm sự ổn định của các quan hệ xã hội có liên quan. Tuy nhiên, để bảo đảm hơn tính khả thi của quy định này thì một số vấn đề pháp lý về ly hôn cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn hoặc có hướng dẫn cụ thể hơn, như: pháp luật về đầu tư, kinh doanh cần cụ thể hóa quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh, nhất là các vấn đề về góp vốn, quyền của người góp vốn trong công ty, xác định tư cách cổ đông, quyền hưởng lợi tức cổ đông…

Bên cạnh đó, tại Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình, trong trường hợp người vợ có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, điều này lại vấp phải một thực tế khá ngang trái là trường hợp trẻ không phải là con của người chồng thì người chồng cũng không được ly hôn (chẳng hạn như vợ có bầu do ngoại tình, hay mang thai với người cũ trước khi làm vợ...) vì theo quy định hiện hành, trẻ đã được thành thai trong thời kỳ hôn nhân thì đương nhiên là con của vợ chồng. Cần có hướng dẫn cụ thể hơn về những nội dung có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, như “thật sự tự nguyện ly hôn”, “vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”, “người mẹ không đủ điều kiện”… để tránh việc áp dụng không thống nhất, phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền, như thẩm phán, kiểm sát viên. Cần có cơ chế pháp lý để bảo vệ hiệu quả hơn quyền, lợi ích của các bên liên quan trong thực hiện quyền lưu cư của vợ chồng khi ly hôn; quyền của con dâu, con rể khi sống chung với gia đình nhà chồng, nhà vợ; quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con; quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con…

Vấn đề ly thân. Luật Hôn nhân và gia đình chưa quy định về chế định ly thân nhưng thực tế hiện tượng này vẫn xảy ra. Do đó, đề nghị nghiên cứu ghi nhận chế định ly thân trong Luật. Việc quy định chế định ly thân sẽ bảo đảm tốt hơn quyền lợi của các con, các thành viên khác trong gia đình; minh bạch hóa các giao dịch dân sự, kinh tế do một bên vợ, chồng thực hiện... Bên cạnh đó, ly thân còn là một biện pháp giúp các bên vợ, chồng tránh tình trạng bạo lực gia đình, tạo điều kiện cho vợ chồng có thời gian để cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tiến tới quyết định ly hôn... Trường hợp chưa ghi nhận chế định độc lập về ly thân thì cần nghiên cứu bổ sung ly thân là một căn cứ cho ly hôn.

Về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một bước tiến lớn, có tính nhân văn cao trong việc bảo đảm việc thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của công dân, tạo cơ chế pháp lý minh bạch, rõ ràng hơn trong việc ngăn chặn các hành vi trục lợi của việc mang thai hộ.

Tuy nhiên, để mục đích tốt đẹp của việc mang thai hộ đạt hiệu quả cao hơn cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế hoặc hướng dẫn áp dụng đối với việc thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của những cặp vợ chồng đã có con chung nhưng con bị khuyết tật hoặc bệnh về trí não, vợ chồng không thể sinh con tiếp nhưng không có quyền được nhờ người khác mang thai hộ, như vậy sẽ rất ảnh hưởng đến gia đình họ; nghiên cứu mở rộng đối tượng có thể mang thai hộ miễn sao họ có mục đích nhân đạo, hỗ trợ vợ chồng trong việc thực hiện quyền làm cha, làm mẹ; cơ chế pháp lý xử lý nghiêm những hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại; cơ chế giải quyết tranh chấp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; cụ thể hóa về đối tượng được hưởng chế độ thai sản trong trường hợp lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội là người chồng trong cặp vợ chồng vô sinh nhờ mang thai hộ có được hưởng chế độ thai sản không nếu ngay sau khi sinh con, người mang thai hộ giao ngay con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nuôi dưỡng.

Về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Tại một số nước, khi công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài tại nước ngoài bị yêu cầu thôi quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, trong trường hợp bị tước bỏ quốc tịch nước ngoài, công dân Việt Nam trở thành người không quốc tịch, thủ tục để được chấp nhận trở lại quốc tịch Việt Nam rất khó khăn; thực tế cho thấy cần quy định chặt chẽ các điều kiện kết hôn với người nước ngoài, bổ sung một số điều kiện cần thiết như điều kiện về trình độ ngôn ngữ, sức khỏe, chênh lệch về tuổi, đã trải qua lớp đào tạo về văn hóa hôn nhân, gia đình của nước ngoài…

Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có những quy định xác lập thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài (chẳng hạn pháp luật chưa có quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ sau khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc… nên việc giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân: trình độ thấp, không có thông tin về các cơ quan ngoại giao.

Bên cạnh đó, Luật chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng kết hôn giả tạo nhằm mục đích khác. Luật Hộ tịch năm 2014 đã bỏ thủ tục phỏng vấn đối với bên nam và bên nữ khi đăng ký kết hôn tại UBND cấp huyện. Tuy nhiên, nhiều trường hợp đăng ký kết hôn với mục đích để được nhập cư ở nước ngoài đã lợi dụng việc đăng ký kết hôn này. Trong quá trình giải quyết, công chức làm công tác hộ tịch nếu không kiểm tra kỹ hồ sơ cũng như thực hiện việc thẩm tra, xác minh tại địa phương thì không thể phát hiện ra được. Nhưng nếu như thực hiện thẩm tra, xác minh thì sẽ không bảo đảm về thời gian giải quyết, làm ảnh hưởng đến việc giải quyết thủ tục hành chính.

Trong thực tiễn xét xử, tòa án cũng đã gặp nhiều vướng mắc khi giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, trường hợp người Việt Nam đi lao động xuất khẩu ở nước ngoài, hết thời hạn hợp đồng lao động không về nước mà trốn ở lại sống lưu vong ở nước đó, người vợ (chồng) ở Việt Nam muốn ly hôn với họ, nhưng không biết họ đang ở đâu, không có liên lạc với gia đình. Hoặc trường hợp người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, sau một thời gian sinh sống với vợ (chồng) ở nước ngoài trở về Việt Nam và có yêu cầu ly hôn với chồng (vợ) của mình đang ở nước ngoài. Mặc dù các trường hợp trên, tòa án đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết như ủy thác tư pháp ra nước ngoài nhưng vẫn không có kết quả, dẫn đến vụ việc không được giải quyết, ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi của đương sự...

ThS. NGUYỄN THỊ LIỄU

/thu-thap-chung-cu-bang-bien-phap-trung-cau-giam-dinh-trong-vu-an-hanh-chinh.html