/ Pháp luật - Đời sống
/ Một số điều cần lưu ý khi làm đơn giám đốc thẩm

Một số điều cần lưu ý khi làm đơn giám đốc thẩm

15/09/2024 12:01 |

(LSVN) - Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị. Thủ tục này không chỉ đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong hoạt động tư pháp mà còn giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Sau đây là một số điều cần lưu ý khi làm đơn đề nghị giám đốc thẩm.

Ảnh minh họa.

Căn cứ pháp lý

Giám đốc thẩm được quy định từ Điều 326 – Điều 342 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng trong quá trình xét xử, không phải là một cấp xét xử.

Tính chất của giám đốc thẩm

Căn cứ vào điều 325 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định : Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này.

Căn cứ vào điều 370 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định: Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Căn cứ vào Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ, điều kiện sau đây:

Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; Trên thực tế, có nhiều yếu tố gây ra sự không phù hợp giữa kết luận của Tòa án và các tình tiết khách quan trong vụ án. Thông thường, điều này được biểu hiện qua việc Tòa án không xem xét toàn diện tài liệu, chứng cứ của vụ án, dẫn đến việc Tòa án đưa ra quyết định không đúng, không phù hợp với tình tiết của vụ án.

Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Pháp luật tố tụng dân sự không định nghĩa cụ thể thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, chúng ta có thể tham khảo quy định tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định rằng “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án”.

Như vậy, nếu Tòa án không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị ảnh hưởng thì được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Chẳng hạn pháp luật quy định Tòa án không giải thích cho bị đơn quyền được đưa ra yêu cầu phản tố trước phiên họp công khai, chứng cứ và hòa giải, dẫn đến bị đơn không thể thực hiện quyền tố tụng của mình, có thể được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Đây là sai sót nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật khiến bản chất của vụ án bị thay đổi nghiêm trọng. Vì vậy, cần có việc xem xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực để khắc phục sai sót này.

Người có thẩm quyền kháng nghị tiến hành kháng nghị giám đốc thẩm khi:

- Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này

- Có đơn đề nghị theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật này hoặc có thông báo, kiến nghị theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 327 của Bộ luật này;

Trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị.

Như vậy, khi có một trong các căn cứ nêu trên thì chủ thể có quyền kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định.

Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Căn cứ vào Điều 331 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau :

Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.

Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Trình tự thủ tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 

Căn cứ vào Điều 328 – Điều 330 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thủ tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm các bước sau :

Bước 1. Đương sự nộp đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tại Tòa án, Viện Kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm bằng cách nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu chính. Kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị phải gửi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đơn đề nghị bao gồm các nội dung sau:

- Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị.

- Tên, địa chỉ của người đề nghị.

- Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Lý do đề nghị, yêu cầu của người đề nghị.

- Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp.

Bước 2. Tòa án, Viện Kiểm sát tiếp nhận đơn đề nghị và ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự. Ngày gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án, Viện Kiểm sát hoặc ngày có dấu dịch vụ bưu chính nơi gửi.

Bước 3. Tòa án, Viện Kiểm sát kiểm tra tính hợp lý, đầy đủ của đơn đề nghị. Trường hợp đơn đề nghị không có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật này  thì Tòa án, Viện Kiểm sát yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện Kiểm sát; hết thời hạn này mà người gửi đơn không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án, Viện Kiểm sát trả lại đơn đề nghị, nêu rõ lý do cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn.

Bước 4. Nếu hồ sơ đơn đã đầy đủ, hợp lệ, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định; trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho   đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo, kiến nghị.

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 

Căn cứ vào Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:

- Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự  2015 nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

- Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

- Quy định này nhằm đảm bảo rằng ngay cả khi thời hạn kháng nghị thông thường đã hết, nhưng vẫn có cơ hội để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan nếu bản án hoặc quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt, tuy nhiên nhiều người vẫn chưa thực sự hiểu rõ được đó là một thủ tục kháng nghị nhằm xem xét lại các bản án có các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng trong quá trình xét xử, không phải là một cấp xét xử như sơ thẩm và phúc thẩm. Các điều kiện, các căn cứ đề kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cần tuân thủ theo quy định của Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Đồng thời, cần hiểu rõ người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao và Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao.

Vì vậy, khi làm đơn giám đốc thẩm đương sự cần trình bày rõ trong đơn giám đốc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm hoặc phúc thẩm của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Các thủ tục này có thể được tham khảo trên Internet, các trang web luật pháp, các điều khoản trong các văn bản luật định của Nhà nước như: Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,... Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi rất nhiều những thách thức, phải đầu tư thời gian, tài liệu một cách đầy đủ và kịp thời để được giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Hiện nay, còn tồn đọng rất nhiều các bản án , quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa được giải quyết do thiếu các chứng cứ, tài liệu liên quan chưa kịp thời bổ sung trong quá trình làm thủ tục làm đơn giám đốc thẩm. Như vậy, quá trình làm đơn giám đốc thẩm cần phải do những người có chuyên môn thực sự đứng ra làm đơn thì quá trình giám đốc thẩm mới diễn ra nhanh chóng, đồng bộ, kịp thời và nhất quán.

Hơn ai hết các Luật sư có kinh nghiệm mới thực sự đủ chuyên môn và sự thấu hiểu trong quá trình tranh tụng để có thể làm tốt quá trình làm đơn giám đốc thẩm một cách nhanh gọn, chính xác, đúng và đủ. Đây không chỉ là vấn đề tiền bạc, mà còn là công sức, thời gian của Luật sư để quá trình này diễn ra một cách thuận lợi.

Luật sư TRẦN XUÂN TIỀN

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

08 trường hợp có thể thu hồi giấy phép lái xe

Nguyễn Hoàng Lâm