/ Kết nối
/ Một số hạn chế của quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Một số hạn chế của quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

26/06/2021 09:18 |3 năm trước

(LSVN) - Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2020 có quy định “Tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên, bên thứ ba rất khó để tiếp cận điều lệ hay các văn bản nội bộ của doanh nghiệp. Do đó, quy định của pháp luật chưa thực sự khả thi.

Những hạn chế còn tồn đọng

Về quy định xác lập người đại diện theo pháp luật

Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định thêm tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự của người đại diện theo pháp luật, tuy nhiên lại chưa đề cập đến chức năng “xác lập” giao dịch nhân danh doanh nghiệp. Mặc dù, có thêm quy định mở “các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật” song việc không quy định cụ thể cũng là một hạn chế.

Về quy định tòa án chỉ định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là tòa án sẽ chỉ định ai trong số những người đang là đại diện theo pháp luật đối với trường hợp có nhiều người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật mà người đó không thể tiếp tục thì tòa án sẽ chỉ định ai là người đại diện theo pháp luật?

Về quy định thời điểm xác lập đại diện, pháp luật không quy định thứ tự ưu tiên áp dụng căn cứ xác lập nên vẫn đang có nhiều tranh luận trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi người đại diện theo pháp luật, thời điểm xác lập thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ là thời điểm doanh nghiệp ra quyết định bổ nhiệm người đại diện theo pháp luật hay thời điểm được cấp giấy chứng nhận điều chỉnh nội dung đăng ký doanh nghiệp.

Về quy định tiêu chuẩn, điều kiện của người đại diện theo pháp luật

Khoản 1 Điều 31 Hiến năm 2013 quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, việc quy định người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự không được làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trái với quy định về quyền con người, quyền công dân hay không vì họ chưa phải là tội phạm?

Đối với quy định về điều kiện thường trú. Luật quy định bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện cư trú tại Việt Nam và nếu chỉ có một người đại diện, thì khi xuất cảnh phải thực hiện việc ủy quyền. Ngoài ra, trường hợp người đại diện theo pháp luật vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải ủy quyền, như vậy thì người đại diện theo pháp luật vẫn được phép vắng mặt trong một khoảng thời gian không xác định (1 năm, 2 năm…) cho nên quy định điều kiện “thường trú” ở đây không có ý nghĩa nhiều trong thực tiễn.

Về số lượng người đại diện

Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định số lượng người đại diện theo pháp luật, nhưng xét ở góc độ kỹ thuật lập pháp thì vẫn còn chưa hợp lý khi đặt ở phần quy định chung, nên sẽ dẫn đến cách hiểu là chỉ có công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mới có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật, còn các loại hình doanh nghiệp khác sẽ không được có nhiều người đại diện theo pháp luật mà trong khi công ty hợp danh luôn có ít nhất từ hai người đại diện theo pháp luật trở lên.

Thông tin về việc phân công trách nhiệm chỉ giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp mà không phải doanh nghiệp nào cũng có trang thông tin điện tử nên các chủ thể bên ngoài sẽ khó mà biết được người đại diện mà mình đang đàm phán có thẩm quyền hay không? Thực tiễn cho thấy khi tòa án tiếp cận giải quyết các tranh chấp đối với doanh nghiệp có nhiều hơn một người đại diện, việc sửa đổi bổ sung đơn từ cũng mất nhiều thời gian của doanh nghiệp, đồng thời trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện mà một trong những người đó đi vắng không thể ký đơn hoặc có tranh chấp về việc khởi kiện tại tòa án thì lại chưa có hướng giải quyết. Luật Doanh nghiệp cũng chưa tính đến biện pháp xử lý trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã bị bãi nhiệm, cách chức hoặc chấm dứt hợp đồng lao động. Việc thay đổi người đại diện theo pháp luật phải được đăng ký mất 03 ngày làm việc. Trong thời gian chờ thay đổi, nếu đối tác kiểm tra thông tin thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp sẽ chỉ biết về người đại diện theo pháp luật cũ, trong khi trên thực tế kể từ thời điểm nghị quyết, quyết định của hội đồng thành viên hoặc đại hội đồng cổ đông được thông qua, người đại diện theo pháp luật cũ đã không còn thẩm quyền.

Về phạm vi, thẩm quyền

Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2020 có quy định “Tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên, bên thứ ba rất khó để tiếp cận điều lệ hay các văn bản nội bộ của doanh nghiệp. Do đó, quy định của pháp luật chưa thực sự khả thi.

Về quyền và nghĩa vụ

Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dường như chỉ chú trọng quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ mà bỏ quên quyền lợi của họ khi là người đại diện theo pháp luật, mặc dù Luật Doanh nghiệp cũng đã quy định rải rác về quyền của người đại diện, tuy nhiên lại chưa thể chế thành điều luật cụ thể.

Người đại diện theo pháp luật phải thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách cẩn trọng, trung thực, tuy nhiên rất khó xác định khi nào người quản lý vi phạm các nghĩa vụ này bởi đây là một quy định mang tính định tính. Pháp luật doanh nghiệp vẫn chưa giải thích thế nào là vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, trung thực

Một số đề xuất hoàn thiện các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Cần bổ sung vai trò “xác lập” các giao dịch vào khái niệm về người đại diện theo pháp luật. Cụ thể: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp... theo quy định của pháp luật”.

Cần ban hành những quy định trong trường hợp tòa án chỉ định. Cụ thể, đối với trường hợp công ty cổ phần có hai người đại diện mà một trong số họ không thể làm người đại diện thì tòa án sẽ chỉ định người còn lại. Trường hợp doanh nghiệp có hơn hai người đại diện theo pháp luật thì tòa án căn cứ vào điều lệ hoặc sự thỏa thuận của công ty; đối với trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì tòa án sẽ chỉ định trong số những người đó; hoặc nếu quy định không có nhiều sự lựa chọn thì tòa án căn cứ vào điều lệ công ty, sự thỏa thuận của doanh nghiệp để chỉ định.

Quy định rõ thời điểm xác lập tư cách đại diện theo pháp luật hoặc thứ tự ưu tiên áp dụng. Có thể quy định theo hướng tương tự như thời điểm xác lập quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự là “thời điểm xác lập quyền đại diện thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo điều lệ; trường hợp luật không quy định và điều lệ không quy định thì thời điểm xác lập quyền đại diện là thời điểm quyền đại diện được chuyển giao”.

Nên cho phép người bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc có áp dụng biện pháp như: bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, được làm người đại diện bởi đối với các trường hợp này họ vẫn có khả năng thực hiện được chức năng, nhiệm vụ. Cần sửa đổi Luật theo hướng giữ nguyên quy định “bị kết án tù” của Luật Doanh nghiệp 2014 để bảo đảm quyền cho những người đại diện chưa bị kết tội bằng bản án.

Bỏ quy định về điều kiện “thường trú” hoặc quy định thống nhất đối với trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện và có nhiều người đại diện. Mặt khác, nếu đã quy định người đại diện được phép ủy quyền hoặc chủ sở hữu công ty, hội đồng thành viên, hội đồng quản trị được quyền cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty thì không cần thiết quy định điều kiện thường trú.

Trong trường hợp khi đã chấm dứt tư cách pháp lý của người đại diện theo pháp luật cũ mà chưa thực hiện thủ tục thì phải quy định trong điều lệ, hoặc phải đăng công bố thông tin về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật. Có thể quy định “đối với việc thay đổi người đại diện thì kể từ thời điểm phòng đăng ký kinh doanh ra biên nhận hợp lệ về việc thay đổi thông tin đăng ký doanh nghiệp thì chấm dứt quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật cũ”.

Tòa án nhân dân tối cao cần có giải đáp hoặc hướng dẫn về việc người đại diện doanh nghiệp ký đơn khởi kiện hoặc ký hồ sơ tố tụng, có thể căn cứ vào điều lệ hoặc sự thỏa thuận của doanh nghiệp, trường hợp doanh nghiệp không quy định trong điều lệ thì tòa án căn cứ vào quy định đủ thẩm quyền của người đại diện ở khoản 2 Điều 12 Luật Doanh nghiệp để công nhận tính hợp pháp của các đơn từ, văn bản.

Cần có điều luật cụ thể quy định về quyền của người đại diện theo pháp luật để bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ, có thể quy định tương tự như quyền của chủ sở hữu công ty. Pháp luật doanh nghiệp cần giải thích những quy định về “nghĩa vụ trung thực”, “nghĩa vụ cẩn trọng” trong các văn bản hướng dẫn.

Luật sư MAI THỊ NGỌC OANH

Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Tòa án Luật sư của Cộng hòa liên bang Đức

(LSVN) - Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng và tính hiệu quả của tòa án Luật sư, Luật Luật sư liên bang ngày 01/8/1959 (sau đây gọi là LLS Đức 1959) đã dành hẳn 3 phần, 8 chương để quy định về tòa án Luật sư. Việc thành lập, duy trì hoạt động tố tụng tốt các tòa án Luật sư trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội Đức vẫn đậm nét đặc trưng.

Cộng hòa liên bang Đức (sau đây gọi là Đức) là Nhà nước liên bang, pháp quyền và xã hội, trong đó quyền của người dân được Nhà nước bảo vệ.

Sứ mạng vinh quang bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân ở đất nước có nền công, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến được thể hiện ở nhiều góc độ, khía cạnh, hình thức phong phú, nổi bật nhất là việc Nhà nước duy trì một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, có tính thống nhất cao, gắn liền với cơ chế thực thi hiệu quả; các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp được tổ chức, cơ cấu phù hợp, nhân sự đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, bảo đảm hoạt động có chất lượng.

Việc đội ngũ thẩm phán được thực thi công việc hoàn toàn độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và đội ngũ Luật sư hành nghề tự do, độc lập theo cơ chế tự quản là niềm tự hào lớn, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp bảo vệ pháp luật của nước Đức nói chung.

Hệ thống tòa án đa dạng ở Đức

Trước khi tìm hiểu Tòa án Luật sư, chúng ta có thể điểm qua bức tranh tổng thể về tòa án đa dạng, phong phú của nước Đức.

Theo thống kê mới nhất, Đức có 1.086 tòa án (chưa kể đến các tài phán nghề nghiệp), trong đó phần lớn (24 tòa án cấp cao bang, 115 tòa án sơ thẩm bang và 638 tòa án khu vực tại 16 bang) là các tòa án tư pháp thuộc sự quản lý của cơ quan quản lý tư pháp các bang, phân bổ khá đều trên toàn quốc với 2.054 thành phố lớn, vừa và nhỏ (thống kê mới nhất vào tháng 01/2021).

Ở cấp liên bang, Đức có Tòa án hiến pháp liên bang, Tòa án tối cao liên bang (là tòa án cấp cao nhất ở Đức thực hiện sự nghiệp bảo vệ pháp luật trong các lĩnh vực dân sự và hình sự, được thành lập ngày 01/10/1950, có trụ sở tại thành phố Karlsruhe), Tòa án hành chính liên bang, Tòa án tài chính liên bang, Tòa án xã hội liên bang, Tòa án bản quyền liên bang (duy nhất có một, tại thành phố Muy-níc), Tòa án kỷ luật và tố cáo liên bang, Tòa án quân sự liên bang.

Đức là nước thuộc top hàng đầu thế giới về phát triển thương mại, kim ngạch xuất nhập khẩu rất lớn; giành nhiều thành tích thể thao trên đấu trường quốc tế, bởi vậy, hệ thống tòa án trọng tài và tòa án thể thao rất phát triển.

Để bảo đảm tính thống nhất của công tác xét xử trên toàn liên bang, theo Điều 95 của Luật Cơ bản, một Hội đồng Thẩm phán được thành lập trong Tòa án tối cao liên bang (Luật Cơ bản được ban hành ngày 23/5/1949; một ngày sau đó Luật này trở thành Hiến pháp nước Cộng hòa liên bang Đức mới thành lập. Sự kiện lịch sử thống nhất nước Đức ngày 03/10/1990 cũng đồng nghĩa với việc Luật Cơ bản ngày 24/5/1949 trở thành Hiến pháp chung của Cộng hòa liên bang Đức. Tuy nhiên, để tôn trọng tên gọi lúc được ban hành, các nhà lập pháp Đức vẫn sử dụng tên gọi “Luật Cơ bản”; hơn nữa 16 bang của nước Đức đều có hiến pháp riêng).

Sự cần thiết của tòa án Luật sư

Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng và tính hiệu quả của tòa án Luật sư, Luật Luật sư liên bang ngày 01/8/1959 (sau đây gọi là LLS Đức 1959) đã dành hẳn 3 phần, 8 chương để quy định về tòa án Luật sư. Việc thành lập, duy trì hoạt động tố tụng tốt các tòa án Luật sư trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội Đức vẫn đậm nét đặc trưng.

Tại Đức có tòa án danh dự (Ehrengericht), còn được hiểu là tòa án nghề nghiệp thuộc tòa án công quyền để giải quyết những vấn đề liên quan đến nhân sự một số ngành nghề nhất định, như Luật sư, thầy thuốc… do vi phạm nghĩa vụ nghề nghiệp. Mục đích của tài phán là duy trì kỷ luật, kỷ cương, danh dự, uy tín và đạo đức nghề nghiệp. Về mặt tổ chức, Tòa án danh dự được cơ cấu như một phân tòa bên cạnh Tòa án hình sự.

Tòa án danh dự được thành lập bởi 1 thẩm phán và 2 thành viên trong ngành (mà người vi phạm công tác) nhằm giải quyết các vụ việc liên quan đến vi phạm nghĩa vụ trong khi hành nghề, các hành vi chống đối lệnh cấm cạnh tranh không lành mạnh. Các trường hợp thường gặp là Luật sư, chuyên gia tư vấn thuế, người được ủy nhiệm toàn quyền về thuế, công chứng viên, Luật sư chuyên về bản quyền, các thầy thuốc tại các cơ sở điều dưỡng, nhân viên tại các cửa hàng dược phẩm.

Với nhiều ngành nghề khác có quy định pháp luật của các bang điều chỉnh.

Các chế tài thuộc phán quyết của tòa án danh dự bao gồm phạt hành chính, phạt tiền và khai trừ khỏi tổ chức Luật sư.   

Tòa án danh dự có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giống như tòa án kỷ luật để giải quyết các vụ việc phát sinh trong đội ngũ công chức của Đức.

Cơ cấu, tổ chức và hoạt động của tòa án Luật sư

Trong bài “Đào tạo Luật sư ở Cộng hòa liên bang Đức” đăng trên Tạp chí Luật sư Việt Nam số 3/2021 chúng ta được biết một quy trình đào tạo thống nhất trên 16 bang nước Đức cho những sinh viên luật muốn trở thành thẩm phán, Luật sư, công chứng viên, công tố viên sau khi tốt nghiệp đại học luật (cử nhân luật). Bởi vậy, khi tìm hiểu về tòa án Luật sư chúng ta dễ nhận thấy những điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng, tổ chức (cử biệt phái thẩm phán sang tòa án Luật sư, bổ nhiệm Luật sư đảm nhận công việc thẩm phán, công việc là hội thẩm theo thời hạn…) kiện toàn hoạt động tố tụng tòa án Luật sư.

Tòa án Luật sư được thành lập tại địa phương nơi đoàn Luật sư có trụ sở (khoản 1 Điều 92). Tùy theo yêu cầu, tòa án Luật sư có thể có nhiều tòa chuyên trách. Số lượng tòa chuyên trách do cơ quan quản lý tư pháp bang quy định; tuy nhiên, trước đó có tham khảo ý kiến đoàn Luật sư.

Theo yêu cầu thực tế, tòa án Luật sư được cơ cấu bởi chánh tòa và các thành viên. Chánh tòa và các thành viên phải có năng lực thẩm phán theo Luật Thẩm phán của Đức ngày 14/9/1972, do cơ quan quản lý tư pháp bang bổ nhiệm (Điều 93) và đương nhiên là Luật sư, đã được bầu vào ban chấp hành thuộc đoàn Luật sư địa phương nơi tòa án Luật sư có trụ sở.

Các tòa chuyên trách của tòa án Luật sư được cơ cấu bởi 3 thành viên, kể cả chánh tòa (Điều 96). Tuy nhiên, điểm đặc biệt cần lưu ý đối với các vụ việc theo quy định của LLS Đức 1959 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án tối cao liên bang thì sẽ thành lập một tòa chuyên trách (dân sự hoặc hình sự) về các vụ việc Luật sư ngay trong Tòa án tối cao liên bang theo quy định tại Điều 132 Luật Tổ chức tòa án ngày 12/9/1950, được sửa đổi, bổ sung mới nhất bởi Luật ngày 09/3/2021.

Tòa chuyên trách trong Tòa án tối cao liên bang được cơ cấu bởi chánh án và 2 thành viên của Tòa án tối cao liên bang cùng với 2 Luật sư là hội thẩm (khoản 1 và 2 Điều 106).

Việc giám sát các tòa án tư pháp trong mỗi bang thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý tư pháp bang đó (sau khi thống nhất nước Đức, 3 thành phố lớn là Berlin, Hamburg và Bremen trở thành 3 trong số 16 bang, vì vậy, thay vì dùng cụm từ “cơ quan Bộ Tư pháp bang”, trong các văn bản quy phạm pháp luật thường sử dụng cụm từ “cơ quan quản lý tư pháp bang” (Landesjustizverwaltung) để tạo sự nhất quán, “bình đẳng” về thẩm quyền hành chính giữa các bang , tránh “sự phân biệt”). Tòa án Luật sư cũng không là ngoại lệ (khoản 1 Điều 92).

Nhiệm kỳ thành viên của tòa án Luật sư là 5 năm. Sau khi kết thúc, nếu thành viên đó hoàn thành tốt nhiệm vụ, dưới góc độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, có uy tín trong quá trình công tác thì có thể được bổ nhiệm lại (khoản 4 Điều 94). Thời hạn 5 năm cũng được áp dụng đối với các Luật sư đảm nhận công việc là hội thẩm do cơ quan quản lý tư pháp bang bổ nhiệm (khoản 1 Điều 107).

Luật sư là thành viên của tòa án Luật sư đảm nhận nhiệm vụ với vị trí pháp lý là thẩm phán chuyên nghiệp. Những thẩm phán của tòa án khác được cử biệt phái đến nhận công tác tại tòa án Luật sư, về tính chất công việc không có gì thay đổi, chính vì vậy, vẫn là thẩm phán chuyên nghiệp (khoản 1 Điều 95).

Kể cả khi được bổ nhiệm là hội thẩm tham dự các phiên tòa, Luật sư có nghĩa vụ im lặng với bất cứ ai, giữ bí mật thông tin nghề ngiệp. Chỉ khi được phép của Chánh án Tòa án tối cao liên bang thì Luật sư đó mới được tiết lộ (khoản 2 Điều 110).

Theo đề nghị tương trợ nghề nghiệp và tương trợ pháp lý của tòa án Luật sư thì các tòa án và cơ quan hành chính khác thực hiện nghĩa vụ này. Tòa án Luật sư cũng có nghĩa vụ tương trợ như trên (có thể do 1 thành viên độc lập thực hiện) đối với các tòa án và cơ quan hành chính khác ((khoản 1 và 2 Điều 99) khi có đề nghị tương tự.

Về chế tài của tòa án Luật sư

Đối với những Luật sư cố ý vi phạm nghĩa vụ quy định trong Luật này hoặc các quy định về nghề nghiệp, thì tùy theo mức độ vi phạm, sẽ bị áp dụng một trong các chế tài sau đây: một là, cảnh cáo; hai là, khiển trách; ba là, phạt tiền lên đến 25.000 EURO; bốn là, cấm hành nghề đại diện trong thời hạn từ 1 đến 5 năm trong một số lĩnh vực pháp luật nhất định; năm là, khai trừ khỏi đoàn Luật sư (Điều 114).

Tòa án Luật sư bang

Nhận thấy vị trí và tầm quan trọng của tòa án Luật sư bang nên LLS Đức 1959 dành hẳn một chương (từ Điều 100 đến 105) để quy định.

Tòa án Luật sư bang được thành lập trong tòa án cấp cao bang và do cơ quan quản lý tư pháp bang giám sát hoạt động (khoản 1 Điều 100).

Tòa án Luật sư bang được cơ cấu bởi 1 chánh án, một số thành viên khác là chánh tòa, Luật sư và thẩm phán chuyên nghiệp. Chánh án và chánh tòa phải có đủ năng lực thẩm phán theo Luật Thẩm phán (khoản 1 Điều 101).

Tùy theo yêu cầu thực tế, tòa án Luật sư bang có thể thành lập nhiều tòa chuyên trách. Mỗi tòa chuyên trách gồm 5 thành viên, kể cả chánh tòa. Hội đồng xét xử gồm 2 Luật sư là hội thẩm và 2 thẩm phán chuyên nghiệp (Điều 104).

Cơ quan quản lý tư pháp bang quyết định số lượng tòa chuyên trách, tuy nhiên, trước đó có tham khảo ý kiến của ban chấp hành đoàn Luật sư (khoản 2 Điều 101).

Chánh án tòa án Luật sư bang và các chánh tòa được đề cử từ những Luật sư là thành viên của tòa án Luật sư bang (khoản 3 Điều 101). Cơ quan quản lý tư pháp bang tham khảo ý kiến ban chấp hành đoàn Luật sư trước khi bổ nhiệm các chánh tòa và cử chánh tòa thường trực.

Việc cử biệt phái thẩm phán chuyên nghiệp từ nguồn nhân sự của tòa án cấp cao bang sang đảm nhận nhiệm vụ là thành viên của tòa án Luật sư bang với thời hạn 5 năm do cơ quan quản lý tư pháp bang thực hiện (khoản 1 Điều 102).

Các Luật sư là thành viên của tòa án Luật sư bang cũng như các Luật sư được cử làm hội thẩm được nhận một khoản tiền gắn với công việc, tiền tàu xe đi lại và tiền lưu trú khách sạn theo quy định tại khoản 6 Điều 103 LLS Đức 1959.

NGUYỄN QUANG DU

Những bất cập, hạn chế và giải pháp hoàn thiện trong quy định của Bộ luật Hình sự về tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”

Admin
LSVN