/ Dọc đường tố tụng
/ Một số vấn đề pháp lý cần làm rõ đối với bản kháng nghị của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng

Một số vấn đề pháp lý cần làm rõ đối với bản kháng nghị của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng

17/06/2025 09:28 |4 ngày trước

(LSVN) - Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất tại phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng do người bán qua đời, chứng cứ là “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” đã bị TAND Cấp cao tại Đà Nẵng ra quyết định kháng nghị. Luật sư cho rằng nhiều vấn đề pháp lý cần được làm rõ tại quyết định kháng nghị để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho công dân.

“Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” được công nhận là chứng cứ

Theo hồ sơ vụ án, vào năm 2001, ông Trần Viết Đào (sinh năm 1954) cùng vợ là bà Trần Thị Mĩa (sinh năm 1960), trú tại 105 Tố Hữu, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng góp tiền với ông Phạm Viết Hoanh (bị đơn trong vụ án) mua một lô đất có diện tích khoảng 150m2 (nay thuộc tổ 85, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng) của vợ chồng ông Võ Văn Khâm và bà Đoàn Thị Khăn (cả hai đều đã chết), với giá là 20.000.000 đồng. Vợ chồng ông Đào góp 13.000.000 đồng; ông Hoanh góp 7.000.000 đồng, ông Đào trực tiếp giao tiền cho vợ chồng ông Khâm.

Sau khi nhận tiền, vợ chồng ông Khâm đã viết giấy bán đất cho vợ chồng ông Đào, ông Hoanh. Vì tin tưởng nên vợ chồng ông Đào và ông Hoanh không viết giấy thỏa thuận góp chung vốn mua đất. Đồng thời, vợ chồng ông Đào đã giao toàn bộ hồ sơ đất cho ông Hoanh thực hiện thủ tục chuyển nhượng, sang tên.

Khu vực mảnh đất đang gây ra nhiều tranh cãi.

Khu vực mảnh đất đang gây ra nhiều tranh cãi.

Để phân chia đất, vợ chồng ông Đào đã dựng một kho chứa vật liệu xây dựng, còn ông Hoanh đã xây dựng một căn nhà cấp bốn trên mảnh đất đã mua chung. Do thay đổi hoạt động kinh doanh, vợ chồng ông Đào tháo dỡ kho vật liệu đã xây dựng đi nơi khác nhưng vẫn thường xuyên qua lại, thăm nom, quản lý thửa đất của mình.

Khi còn sống, phát hiện ông Hoanh có ý định bán toàn bộ thửa đất trên nên vợ chồng ông Khâm đã thông báo, gọi vợ chồng ông Đào qua nhà viết “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” để làm căn cứ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp sau này. Sau đó, vợ chồng ông Đào đã nhiều lần yêu cầu ông Hoanh tách thửa đất trên nhưng ông Hoanh cố tình tránh né, không thực hiện. Đến năm 2020, vợ chồng ông Đào đã khởi kiện ông Hoanh, yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Công nhận thửa đất số 144, tờ bản đồ số 22 tại địa chỉ tổ 47, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số BV 584858 ngày 23/3/2015 đứng tên ông Phạm Viết Hoanh, bà Hà Thị Vy (GCNQSDĐ thửa đất số 144) là tài sản chung của vợ chồng ông Đào và ông Hoanh;

2. Đề nghị ông Hoanh trả lại cho ông vợ chồng ông Đào phần diện tích 66.64m2, thuộc GCNQSDĐ thửa đất số 144, tờ bản đồ số 22;

3. Vợ chồng ông Đào đề nghị nhận toàn bộ diện tích đất và thối trả lại tiền cho ông Hoanh theo tỉ lệ góp tiền.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2023/DS-ST ngày 14/4/2023, TAND quận Sơn Trà đã quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Đào về việc “Tranh chấp phân chia quyền sử dụng đất”.

Theo đó, HĐXX cấp sơ thẩm nhận định “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” đề ngày 08/10/2001 đã được giám định, xác định chữ ký trên giấy là của ông Khâm. Mặt khác chữ viết trên “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” cũng được bà Võ Thị Mỹ Phượng (con gái vợ chồng ông Khâm) xác nhận là của mình (thừa nhận tại bản tự khai). Ngoài ra, các con của vợ chồng ông Khâm đều xác định có việc bán đất trên thực tế cho vợ chồng ông Đào và ông Hoanh.

Trên cơ sở các chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành tố tụng, TAND quận Sơn Trà đã công nhận diện tích đất 133,5m2, GCNQSDĐ thửa đất số 144 là tài sản chung hợp nhất theo phần của vợ chồng ông Đào với ông Hoanh chưa phân chia; giao vợ chồng ông Hoanh toàn quyền sử dụng diện tích đất 133,5m2, thuộc GCNQSDĐ thửa đất số 144. Tạm giao diện tích 18,7m2 nằm ngoài GCNQSDĐ thửa đất số 144, nhưng nằm trong khuôn viên đất vợ chồng ông Hoanh tiếp tục quản lý, sử dụng. Tổng giá trị tài sản quyền sử dụng đất vợ chồng ông Hoanh được nhận là 2.226.221.134 đồng. Vợ chồng ông Hoanh có nghĩa vụ thối trả lại vợ chồng ông Đào số tiền chênh lệch phân chia tài sản 3.138.167.134 đồng.

Sau khi Bản án sơ thẩm được tuyên, VKSND quận Sơn Trà đã ra quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKN-PT ngày 28/4/2023 về việc kháng nghị đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chia quyền sử dụng đất bằng hiện vật; vợ chồng ông Hoanh, bà Võ Thị Mỹ Phượng (con gái ông Khâm - người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) kháng cáo đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; vợ chồng ông Đào kháng cáo đề nghị sửa Bản án Sơ thẩm theo hướng được nhận quyền sử dụng đất bằng hiện vật.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 152/2023/DS-PT ngày 30/9/2023, TAND TP. Đà Nẵng quyết định chấp nhận: Kháng nghị, kháng cáo của nguyên đơn; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sửa Bản án sơ thẩm, công nhận diện tích đất 133,5m2, GCNQSDĐ thửa đất số 144 có giá trị 5.364.388.314 đồng là tài sản chung theo phần giữa vợ chồng ông Đào (65% quyền sử dụng đất) với vợ chồng ông Hoanh (35% quyền sử dụng đất). Giao vợ chồng ông Hoanh nhận lô đất phía Đông của thửa đất số 144 (ký hiệu là thửa B), vợ chồng ông Đào nhận lô đất phía Tây của thửa đất số 144 (ký hiệu là thửa A). Buộc vợ chồng ông Hoanh thực hiện các thủ tục để tách thửa đối với diện tích đất giao cho vợ chồng ông Đào, thối trả chênh lệch giá trị từ tài sản cho vợ chồng ông Đào số tiền 397.708.115 đồng.

Từ hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên thấy, TAND các cấp tại TP. Đà Nẵng đã nhận định “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” là chứng cứ để giải quyết vụ án.

Theo quan điểm của Luật sư Huỳnh Thị Mừng, Văn phòng Luật sư Đỉnh Việt, Chi nhánh tại Đà Nẵng, “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” đã được giám định chữ ký của người bán là chứng cứ quan trọng để Tòa án các cấp có thể dựa vào đó làm sáng tỏ vụ án. “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” thể hiện rõ ý chí của bên bán tài sản. Việc Toà án hai cấp tại Đà Nẵng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Nhiều câu hỏi đối với bản kháng nghị của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng

Sau khi TAND TP. Đà nẵng xét xử phúc thẩm, ngày 01/11/2023, ông Hoanh có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm trên.

Ngày 26/4/2024, ông Phan Việt Cường, Phó Chánh án TAND Cấp cao tại Đà Nẵng ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/2024/KN-DS (kháng nghị), đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, sửa Bản án phúc thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đến ngày 14/6/2024, TAND Cấp cao tại Đà Nẵng đã ra Quyết định giám đốc thẩm số 42/2024/DS-GĐT, chấp nhận quyết định kháng nghị; sửa Bản án phúc thẩm; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Mấu chốt của vấn đề là những nhận định trong bản kháng nghị như: “Quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông Đào cung cấp “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” đề ngày 08/10/2001 có ghi nội dung: “Gia đình tôi có bán cho vợ chồng chú Đào và chú Hoanh một mảnh đất cạnh nhà, tổng giá trị lô đất là 20.000.000 triệu đồng, trong đó vợ chồng chú Đào đưa 13.000.000 đồng, chú Hoanh đưa 7.000.000 đồng…”. Ngoài giấy xác nhận này, vợ chồng ông Đào không cung cấp được chứng cứ nào khác để chứng minh cùng ông Hoanh mua mảnh đất trên.

Xét nội dung “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” đề ngày 08/10/2001, Phó Chánh án TAND Cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng không đủ cơ sở chứng minh vợ chồng ông Đào, ông Hoanh cùng nhau nhận chuyển nhượng mảnh đất, bởi lẽ: “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” chỉ có chữ ký của vợ chồng cụ Khâm và bà Võ Thị Mỹ Phượng, không có chữ ký của ông Hoanh.

Cùng với đó, bản kháng nghị còn nhận định: “Việc mua bán chuyển nhượng đất diễn ra từ năm 2001, nhưng sau đó mấy năm ông Trần Viết Đào lại tự ý nhờ cụ Khâm, cụ Khăn xác nhận số tiền góp vốn mua chung đất, với số tiền ông Đào góp vốn là 13.000.000 triệu đồng, ông Hoanh góp vốn là 7.000.000 đồng mà không được sự đồng ý của ông Hoanh; trường hợp nếu có việc góp vốn để mua chung đất thì phải là sự thỏa thuận của ông Hoanh, ông Đào”.

Liên quan đến những nhận định trong bản kháng nghị, Luật sư Huỳnh Thị Mừng cho biết: Đánh giá chứng cứ là một hoạt động tố tụng mang tính chuyên môn cao, có vai trò quyết định đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án dân sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc đánh giá chứng cứ phải được thực hiện một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác, trên cơ sở so sánh, đối chiếu giữa các chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Nhưng kháng nghị giám đốc thẩm chưa đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tính hợp pháp, nguồn gốc và độ xác thực của các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể:

Thứ nhất, thửa đất số 144 có nguồn gốc từ thửa đất số 104, tờ bản đồ 22 phường An Hải Bắc của ông Võ Văn Khâm và bà Đoàn Thị Khăn (đã chết). Tháng 3 năm 2001, vợ chồng nguyên đơn và bị đơn đã cùng liên hệ ông Khâm bà Khăn để mua 150m2 của thửa đất trên với giá là 20.000.000 đồng, trong đó nguyên đơn góp 13.000.000 đồng và bị đơn góp 7.000.000 đồng.

Luật sư Huỳnh Thị Mừng, Văn phòng Luật sư Đỉnh Việt, Chi nhánh tại Đà Nẵng.

 Luật sư Huỳnh Thị Mừng, Văn phòng Luật sư Đỉnh Việt, Chi nhánh tại Đà Nẵng.

Thứ hai, vợ chồng ông Khâm khi còn sống đã tự nguyện lập giấy xác nhận nhận tiền mua bán đất ngày 08/10/2001. Trong đó nêu rõ, đã bán đất cho chú Đào và chú Hoanh. Văn bản này do ông bà Khâm nhờ con gái là bà Võ Thị Mỹ Phượng viết để ông bà ký xác nhận. Nếu không có việc mua bán đất chung giữa vợ chồng ông Đào và ông Hoanh thì ông Khâm, bà Khăn và bà Phượng không thể đồng ý viết và ký vào giấy xác nhận cho vợ chồng ông Đào được.

Thứ ba, vợ chồng nguyên đơn và bị đơn có góp tiền mua đất chung đã được những người làm chứng là con trai, con gái của vợ chồng ông Khâm thừa nhận, cụ thể:

Ông Võ Thành Phương (con trai vợ chồng ông Khâm) thừa nhận tại bản tự khai ngày 03/3/2020 (bút lục 99) với nội dung: “Trước đây tôi giới thiệu ông Hoanh về mua đất cho gia đình tôi tại tổ 29 An Cư, An Hải Bắc. Diện tích 140m2 với giá 20.000.000 đồng. Khi bán gia đình tôi gồm có: ông Võ Văn Khâm; bà Đoàn Thị Khăn; anh trai Võ Thành Tiến (hiện đã mất); em trai Võ Thành Phường; em gái Võ Thị Mỹ Phượng. Bên mua gồm có: ông Hoanh, ông Đào. Sau khi nói chuyện thoả thuận giá cả và diện tích đất xong. Ông Đào là người trực tiếp giao tiền qua gia đình”.

Bà Võ Thị Mỹ Phượng cũng thừa nhận tại bản tự khai ngày 02/02/2021 (bút lục 333): “Tôi có biết việc cha mẹ tôi bán đất cho ông Hoanh và ông Đào vào năm 2001 vì lúc đó tôi có mặt khi ba mẹ tôi nhận tiền bán đất của ông Đào và ông Hoanh”.

Thứ tư, về tính xác thực của “Giấy xác nhận nhận tiền mua bán đất” ngày 08/10/2001. Các con của ông Võ Văn Khâm đã thừa nhận nội dung bằng chữ viết trên giấy xác nhận do bà Võ Thị Mỹ Phượng viết, còn chữ ký là của ông Võ Văn Khâm. Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an TP. Đà Nẵng cũng xác định chữ ký trên giấy xác nhận trùng khớp với chữ ký mẫu của ông Võ Văn Khâm. Như vậy, đủ căn cứ khẳng định tính xác thực và hợp pháp của giấy tờ này.

Thứ năm, trong quá trình sử dụng đất, các bên đã thực hiện đúng nội dung thỏa thuận về việc phân chia sử dụng đất sau khi mua. Cụ thể, bị đơn đã tiến hành xây dựng nhà trên diện tích đất mà các bên cùng góp tiền mua của vợ chồng ông Khâm, với diện tích xây dựng là 68,2m2. Vị trí ngôi nhà nằm về phía bên phải thửa đất, tương ứng với thửa đất B theo sơ đồ vị trí thửa đất do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường TP. Đà Nẵng lập ngày 14/11/2022.

Việc xây dựng nhà của bị đơn được thực hiện trước thời điểm bị đơn liên hệ ông Võ Thành Sơn (con trai của vợ chồng ông Khâm) để ký Hợp đồng chuyển nhượng. Thời điểm này, bị đơn vẫn đang sử dụng phần đất theo đúng thỏa thuận với vợ chồng ông Đào (mỗi bên được sử dụng 1/2 diện tích đất chung).

Không những vậy, nguyên đơn cũng đã tiến hành dựng kho chứa vật liệu xây dựng trên phần đất còn lại (phần bên trái thửa đất, tương ứng với thửa đất A theo sơ đồ vị trí do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường TP. Đà Nẵng thực hiện ngày 14/11/2022). Phần kho hiện vẫn nằm trong diện tích đất đang có tranh chấp.

Luật sư Mừng cho biết thêm, trong quá trình bị đơn xây nhà, vợ chồng nguyên đơn không chỉ biết rõ mà còn thường xuyên đến hỗ trợ thi công. Việc vợ chồng nguyên đơn sử dụng phần đất còn lại để dựng kho chứa vật liệu xây dựng là thực tế rõ ràng, được người dân trong khu vực xác nhận và không có tranh chấp vào thời điểm đó.

Thứ sáu, căn cứ vào “Giấy xác nhận nhận tiền mua bán đất” ngày 08/10/2001, lời khai thống nhất của các con ông Khâm, bà Khăn và thực tế sử dụng đất của các bên đủ cơ sở chứng minh có việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Khâm với vợ chồng ông Đào và ông Phạm Viết Hoanh đối với thửa đất số 144.

"Từ các chứng cứ nêu trên đủ căn cứ pháp lý xác định rằng, thửa đất số 144 là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất giữa vợ chồng ông Đào và ông Phạm Viết Hoanh, được hình thành từ giao dịch chuyển nhượng hợp pháp vào thời điểm tháng 3 năm 2001", Luật sư Mừng nói.

Theo quan điểm của Luật sư Mừng, nếu “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” có chữ ký của ông Hoanh thì vợ chồng ông Đào và ông Hoanh có cần khởi kiện nhau ra toà án không?; nếu vợ chồng ông Đào không thực sự góp tiền mua đất thì ông Khâm và bà Khăn (người bán) có tự nguyện xác nhận việc mua bán hay không?; tại thời điểm xác nhận mua bán có sự chứng kiến trực tiếp của bà Phượng (con gái ông Khâm), nếu không có việc mua bán thực tế thì bà Phượng có tự tay viết giấy và đồng ý cho cha mẹ bà xác nhận không?

“TAND Cấp cao đưa ra quan điểm “Giấy xác nhận, nhận tiền bán đất” phải có chữ ký của ông Hoanh và bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mà không xem xét, đánh giá toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là chưa khách quan”, Luật sư Mừng bày tỏ quan điểm.

Được biết, ngày 21/8/2024 TAND Tối cao đã nhận thụ lý đơn đề nghị TAND Tối cao kháng nghị quyết định giám đốc thấm của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng của ông Trần Viết Đào.

NGUYÊN TRUNG

Các tin khác