Nguồn gốc đất rõ ràng, nhưng hồ sơ pháp lý lại chồng chéo
Theo tài liệu, thửa đất số 1001, tờ bản đồ số 4 với diện tích 990m² có nguồn gốc từ năm 1931, khi ông bà nội của nguyên đơn khai hoang và để lại cho vợ chồng cụ Khoan sử dụng ổn định qua nhiều thập kỷ. Trong số này, có 200m² đất ở và 790m² đất trồng cây lâu năm. Điều đáng lưu ý là trước khi mất, vợ chồng cụ Khoan không để lại bất kỳ di chúc, cũng không có văn bản tặng cho hay chuyển nhượng thêm cho người con nào ngoài 396m² đã cho vợ chồng ông Hồ Trọng S. vào năm 1996. Tức là, xét theo pháp luật dân sự, phần còn lại của thửa đất phải được xem là di sản thừa kế theo pháp luật, và tất cả 10 người con đều có quyền ngang nhau.
Tuy nhiên, sự việc trở nên phức tạp khi đến năm 2014, vợ chồng ông S. tự kê khai gộp cả phần đất thừa kế của bố mẹ vào hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Điều đáng nói là việc gộp cả phần đất của bố mẹ để lại không có sự đồng thuận của các anh chị em còn lại. Không có biên bản họp gia đình xác nhận phân chia di sản, nhưng UBND huyện Nghi Lộc vẫn cấp GCNQSDĐ cho toàn bộ diện tích 990m² đứng tên vợ chồng ông S. Nói cách khác, một tài sản có nhiều đồng thừa kế nhưng lại được xác lập quyền sở hữu cho một người con mà không qua thủ tục bắt buộc là không phù hợp với quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 (áp dụng thời điểm bố mẹ mất) về hàng thừa kế và nguyên tắc chia đều.

Thửa đất sát trục đường chính liên xã của vợ chồng cụ Khoan để lại, hiện gia đình ông Hồ Trọng S. đã xây 2 nhà ở cấp bốn kiên cố, (trong đó có một nhà bám trục đường liên xã con trai ở) và một nhà thờ do các con góp tiền xây dựng làm nơi thờ tự vợ chồng cụ Khoan.
Trình bày tại Tòa, ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ tịch UBND xã Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An cho biết, nguồn gốc đất là “HTX cấp cho cụ Hồ Trọng Khoan (thường gọi là cụ Ngọc, PV) năm 1976”. Điều này tạo nên mốc pháp lý mới - ai là chủ đất được cấp hợp lệ từ HTX vào năm 1976 thì là người có quyền sử dụng hợp pháp. Nếu đất cấp cho cụ Khoan thì rõ ràng cụ là người đứng tên sử dụng, và khi cụ mất, toàn bộ đất chưa chuyển nhượng phải chia thừa kế cho các con.
Tuy vậy, hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ lại không thể hiện rõ ràng quá trình xác minh chủ sở hữu gốc - một yêu cầu bắt buộc theo Điều 100 và Điều 101 Luật Đất đai 2013 về “giấy tờ chứng minh nguồn gốc sử dụng đất”. Việc cấp GCNQSDĐ khi chưa xác minh đầy đủ thành viên thừa kế là một thiếu sót nghiêm trọng trong thủ tục hành chính về đất đai, có thể dẫn đến hậu quả pháp lý kéo dài, như thực tế vụ việc đã cho thấy.
Tòa bác yêu cầu khởi kiện
Năm 2022, khi phát hiện đất chung bị kê khai đứng tên một mình ông S., đồng nghĩa quyền lợi thừa kế bị xâm phạm, nhiều anh chị em trong gia đình đã thống nhất để bà Hồ Thị Châu đại diện, khởi kiện ra TAND tỉnh Nghệ An. Nội dung yêu cầu của nguyên đơn gồm:
- Phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật;
- Hủy GCNQSDĐ do UBND huyện cấp cho vợ chồng ông S. năm 2014.
Về mặt pháp lý, yêu cầu này hoàn toàn hợp lý, có căn cứ theo Điều 100, 101 và 106 Luật Đất đai 2013, việc cấp sổ đỏ phải dựa trên nguồn gốc đất hợp lệ và không được vi phạm quyền của người có quyền lợi liên quan. Tức là khi một tài sản có nhiều đồng thừa kế nhưng không được thông báo đầy đủ trước khi cấp GCNQSDĐ, thì GCNQSDĐ có thể bị hủy theo Điều 106 Luật Đất đai 2013.

Giếng nước uống sinh hoạt của gia đình cụ Khoan trước dây (màu tròn đỏ) nằm sát ngôi nhà cấp 4 kiên cố của gia đình ông Hồ Trọng S. xây dựng sau khi được chính quyền địa phương cấp GCNQSDĐ.
Điều đáng chú ý là đại diện Viện KSND tỉnh Nghệ An tại phiên tòa sơ thẩm đã đề nghị tạm ngừng phiên tòa để tống đạt hồ sơ cho các đương sự chưa được xem xét, cho rằng quy trình tố tụng còn thiếu sót. Đây là đề nghị mang tính thận trọng và đúng tinh thần tố tụng dân sự, nhằm đảm bảo không ai bị bỏ sót quyền lợi.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử lại bác đề nghị này với lý do - người khởi kiện đã rút phần yêu cầu về tranh chấp dân sự, chỉ còn lại khiếu kiện hành chính về “quyết định cấp đất”. Vì vậy Tòa cho rằng việc triệu tập đủ các đồng thừa kế không còn bắt buộc.
Nhưng câu hỏi đặt ra là: Đất tranh chấp có nguồn gốc từ thừa kế, vậy làm sao có thể tách khía cạnh hành chính ra khỏi bản chất dân sự của vụ án? Sự “phân tuyến” này vô hình trung có thể bỏ sót bản chất của vấn đề - quyết định hành chính về cấp GCNQSDĐ chỉ hợp pháp khi quyền sử dụng đất được xác định đúng. Mà quyền sử dụng đất này lại phụ thuộc vào việc giải quyết di sản thừa kế.
TAND tỉnh Nghệ An đã bác yêu cầu của bà Châu về việc hủy GCNQSDĐ. Phán quyết này lập tức gây nhiều tranh luận. Từ góc nhìn pháp lý, có một số vấn đề cần phân tích:
1. Tòa chưa làm rõ quan hệ thừa kế - yếu tố quyết định nguồn gốc quyền sử dụng đất: Nếu đất là di sản, thì bất kỳ quyết định cấp GCNQSDĐ trước đó đều có khả năng trái luật nếu không có sự đồng thuận của các đồng thừa kế. Tòa không giải quyết nội dung dân sự mà chỉ xét thủ tục hành chính, dẫn đến việc phán quyết có thể gây “khuyết thiếu” trong tiếp cận bản chất vụ việc.
2. Quy trình cấp GCNQSDĐ năm 2014 có dấu hiệu vi phạm nghĩa vụ xác minh: Theo quy định, khi đất có tranh chấp hoặc có nhiều người có quyền lợi liên quan, địa phương không được cấp GCNQSDĐ cho một cá nhân. Tài liệu vụ án cho thấy đất chưa từng được phân chia, và vẫn còn nhà 3 gian, 2 chái của bố mẹ - dấu hiệu của di sản chưa xử lý.
3. Lợi ích của các đồng thừa kế chưa được đảm bảo: 10 người con đều có quyền ngang nhau theo luật. Việc cấp trọn quyền sử dụng cho một người mà không qua đồng thuận đồng thừa kế đi ngược nguyên tắc chia thừa kế theo pháp luật.
Nhìn từ góc độ khoa học pháp lý trong nghiên cứu luật đất đai, một trong những vấn đề phức tạp nhất là giao thoa giữa thủ tục hành chính và quan hệ dân sự. Vụ việc này là ví dụ rõ nét:
- Quan hệ dân sự: Chia thừa kế;
- Quan hệ hành chính: Cấp GCNQSDĐ;
- Quan hệ nguồn gốc đất công - HTX cấp.
Nếu không xác định đúng thứ tự giải quyết, sẽ tạo nên những phán quyết không thấu đáo. Theo nguyên tắc khoa học pháp lý, quá trình cấp GCNQSDĐ phải được thực hiện sau khi xác định rõ quyền sở hữu và quyền thừa kế. Nghĩa là, khi đất là tài sản chung của 10 người con, thì không thể dựa vào việc “người con út đang ở đó” hay “người con trai đại diện” để cấp GCNQSDĐ.

Văn bản báo cáo của UBND xã Nghi Lộc gửi TAND tỉnh Nghệ An.
Luật sư Lê Hồng Ngọc, Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An khẳng định: “Không thể coi đây là vụ hành chính thuần túy. Bởi, trong thực tiễn xét xử, nhiều tòa án cấp sơ thẩm gặp lúng túng khi phân định giữa “khiếu kiện hành chính về đất đai” và “tranh chấp thừa kế”.
Luật sư Lê Hồng Ngọc phân tích: “Tòa án tỉnh Nghệ An cho rằng nguyên đơn đã rút yêu cầu về chia thừa kế nên không cần triệu tập đầy đủ các đồng thừa kế. Nhưng bản chất đất đang tranh chấp vẫn là di sản thừa kế. Để giải quyết triệt để vụ án thì không nên tách giải quyết vấn đề dân sự và hành chính”. Luật sư Ngọc nhấn mạnh, cho rằng tòa sơ thẩm có thể đã “quá thiên về thủ tục hành chính mà bỏ sót bản chất dân sự của vụ án”.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, bà Hồ Thị Châu đã gửi đơn kháng cáo lên TAND Tối cao. Đây được xem là bước đi cần thiết để đảm bảo vụ án được xem xét toàn diện hơn.
HỮU TRỌNG

