![]()
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đóng vai trò quan trọng.
Quy trình ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật là: xây dựng chính sách - thể chế hóa thành pháp luật - tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật - tổng kết thực tiễn - bổ sung chính sách - sửa đổi pháp luật - tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Trong đó, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để người dân chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật và các cơ quan chức năng áp dụng pháp luật.
Trong cái chu trình khép kín, liên tục như vậy thì tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật là một hình thức thực hiện chính sách, đồng thời cũng là hình thức thực hiện pháp luật để chuyển tải nội dung pháp luật đến với các chủ thể trong đời sống xã hội. Pháp luật sẽ không có ý nghĩa nếu như các chủ thể thực hiện nó không nhận thức được về nó.
Khi pháp luật được ban hành thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là rất quan trọng để người dân nắm được các quy định của pháp luật, hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong các mối quan hệ pháp luật, có thể sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình, hiểu biết pháp luật cũng đều tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, là cơ sở để cơ quan chức năng áp dụng pháp luật để giải quyết các mối quan hệ dân sự, lao động, hành chính, kinh doanh thương mại, hình sự,... phát sinh.
Thực tiễn quá trình hành nghề Luật sư những năm qua tôi thấy rằng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở các địa phương đã thực hiện tương đối tốt, hiểu biết, nhận thức pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao, đặc biệt là các khu vực thành thị. Nhiều người dân đã biết sử dụng pháp luật để đòi hỏi các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình, hiểu biết pháp luật khiến việc chấp hành pháp luật diễn ra tốt hơn và việc áp dụng pháp luật của cơ quan chức năng cũng thuận lợi hơn nhiều.
Tuy nhiên do nhiều yếu tố khác nhau khiến mức độ hiểu biết, nhận thức pháp luật của người dân nói chung đến nay vẫn còn hạn chế, đặc biệt là người dân khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa,... do thiếu hiểu biết pháp luật nên quyền lợi của người dân đôi khi bị xâm hại, nhiều trường hợp cán bộ, công chức nhà nước thực thi công vụ không đúng pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân nhưng người dân vẫn không biết và không biết sử dụng pháp luật để đòi hỏi, yêu cầu các cơ quan bảo vệ pháp luật bảo vệ quyền lợi cho mình. Hạn chế nhận thức pháp luật khiến cho nhiều người không biết đâu là đúng, đâu là sai, đòi hỏi, đưa ra những yêu cầu không có căn cứ pháp lý, hoặc gây ra những tranh chấp, khiếu kiện không cần thiết. Hạn chế nhận thức pháp luật cũng gây khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc áp dụng pháp luật như không chấp hành, có những hành vi chống đối, cản trở người thi hành công vụ, thậm chí chống người thi hành công vụ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Rất nhiều vụ tranh chấp về dân sự, đặc biệt là tranh chấp về đất đai phát sinh trong đời sống xã hội dẫn đến các mối quan hệ hàng xóm, láng giềng bị rạn nứt, anh em, chị em, bố mẹ với các con bị ảnh hưởng, thậm chí đối đầu, những vụ án mạng xảy ra do lòng tham, sự ích kỷ và thiếu hiểu biết pháp luật. Chúng tôi đã tham gia những vụ án tranh chấp dân sự rất căng thẳng giữa các đường sự như vụ việc ở Nam định, Thái Bình, Hà Giang và nhiều tỉnh thành khác. Có những vụ tranh chấp dân sự suýt chút nữa là án mạng xảy ra. Vụ án ở Nam định tranh chấp đất đai giữa hai anh em , án án mạng đã xảy ra, khiến huynh đệ tương tàn chỉ vì đương sự thiếu hiểu biết pháp luật, không biết quyền lợi của mình đến đâu nên cho rằng quyền lợi của mình bị xâm hại dẫn đến mâu thuẫn, căng thẳng, trở thành những vụ án hình sự...
Nhiều vụ tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình diễn ra do các đương sự thiếu hiểu biết pháp luật, không hiểu quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình được pháp luật quy định như thế nào, không hiểu trình tự thủ tục giải quyết như thế nào dẫn đến mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh, kéo dài ảnh hưởng đến hạnh phúc, đời sống, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Nhiều vụ án chống người thi hành công vụ chỉ vì người dân thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu kiểm chế cảm xúc, cho rằng quyền lợi của mình bị xâm hại nhưng không biết cách giải quyết như thế nào cho đúng pháp luật dẫn đến có những hành vi phản ứng phải chống trả lại lực lượng chức năng khiến bản thân rơi vào vòng lao lý, đó là những vụ việc rất đau lòng chỉ vì người dân thiếu hiểu biết pháp luật, do công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa hiệu quả.
Ở các thành phố lớn thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật diễn ra tốt hơn, người dân có nhận thức cao hơn về pháp luật. Đồng thời, ở các thành phố, thị xã, trung tâm văn hóa thì còn có các tổ chức hành nghề Luật sư, đang dần dần hình thành thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý dẫn đến những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện, xung đột liên quan đến pháp lý thì người dân đã biết cách tìm đến Luật sư để được tư vấn, nâng cao hiểu biết pháp luật cũng như tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên an ninh trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo hơn, quyền và lễ hợp pháp của tổ chức, cá nhân được đảm bảo hơn, công tác giải quyết các tranh chấp, giải quyết các vụ án hình sự cũng diễn ra thuận lợi hơn.
Thực tiễn tham gia các vụ án hình sự ở các địa phương, đặc biệt là vùng núi thì Luật sư thường được các Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán tâm sự là người dân nhận thức kém, thậm chí không biết chữ, thiếu hiểu biết pháp luật nên những người tiến hành tố tụng giải thích họ không hiểu hoặc không tin. Khi có Luật sư giải thích thì họ sẽ tin tưởng và chấp hành hơn. Điều này cho thấy công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân, đặc biệt là người dân vùng sâu, vùng xa là rất quan trọng và cần thiết.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế, đặc biệt là người dân khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có thể kể đến như:
- Lực lượng cán bộ chuyên trách về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở các địa phương còn mỏng, chưa được trang bị kịp thời thường xuyên kiến thức pháp luật, phương tiện vật chất để đảm bảo công tác tuyên truyền hiệu quả;
- Nhiều địa phương vẫn chưa quan tâm đúng mức đối với công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân, nhiều trường hợp thực hiện việc tuyên truyền mang tính chất hình thức, lấy lệ nên hiệu quả không cao;
- Hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật chưa đa dạng, còn máy móc, giáo điều, chưa sử dụng có hiệu quả các phương tiện công nghệ thông tin, các thiết bị hiện đại để tuyên truyền nên hiệu quả chưa cao;
- Nhiều địa phương chưa quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên truyền viên có kiến thức, kinh nghiệm, có kỹ năng tốt, chưa đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho lực lượng này khiến cho dù người hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật không có đam mê, hứng thú, không có động lực cũng như trách nhiệm không cao trong việc thực hiện nhiệm vụ;
- Nhiều địa phương chưa huy động tối đa các nguồn lực để tham gia tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, đặc biệt là huy động lực lượng là Luật sư, luật gia, những người hiểu biết pháp luật tham gia cùng với cơ quan chức năng trong việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả;
- Đặc điểm văn hóa của người phương Đông là coi nặng vấn đề tình cảm, coi nhẹ vấn đề về lý nên trong đời sống xã hội, nhiều người không quan tâm đến pháp luật, thở với pháp luật, luôn lấy tình cảm để giải quyết hay cho pháp luật;
- Đặc điểm lịch sử Việt Nam có ngàn năm Bắc thuộc, lại trải qua quá trình chiến tranh kéo dài nên việc xây dựng pháp luật bị gián đoạn, có nhiều thời điểm chưa được quan tâm kịp thời. Bị ảnh hưởng của văn hóa phong kiến, thực dân nên tư duy "phép vua thua lệ làng", dùng "lệ làng" để chống lại "phép vua"- pháp luật là hiện tượng kéo dài dẫn đến tình trạng người dân thờ ơ với pháp luật, thậm chí khinh nhờn pháp luật vẫn diễn ra nên việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật sẽ có những khó khăn nhất định,...
Bởi vậy, để người dân hiểu biết pháp luật, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, hiểu biết pháp luật để sử dụng pháp luật làm công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể, xây dựng văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội, lấy pháp luật làm thước đo cho tính hợp pháp và văn minh của hành vi con người thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật là rất quan trọng. Khi hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, tiến bộ, có tính khả thi và các quy định pháp luật được chuyển tải đến mọi chủ thể trong đời sống xã hội, người dân hiểu biết, chấp hành pháp luật thì xã hội sẽ văn minh hơn, phát triển hơn, tiến bộ hơn, việc quản lý xã hội sẽ dễ dàng hơn nhiều. Bởi vậy công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ quốc gia nào.Trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội, cải cách tư pháp tại Việt Nam hiện nay thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật lại càng quan trọng. Để đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật thì cần thực hiện đồng bộ, đầy đủ các giải pháp, trong đó có thể nhắc đến các giải pháp như sau:
- Cần kiện toàn, hoàn thiện đội ngũ cán bộ, cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ trung ương đến địa phương;
- Cần đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện về kinh tế cho các cán bộ làm công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, trình độ và trách nhiệm của cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật;
- Gắn trách nhiệm đối với từng địa phương trong việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, đưa ra các tiêu chí để đánh giá tính hiệu quả trong công tác truyền tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ đó xem xét việc thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật;
- Huy động lực lượng Luật sư, luật ra tham gia đóng góp cho việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở các địa phương góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân;
- Đa dạng hóa hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật như qua các ấn phẩm sách, báo, phim, ảnh, qua hệ thống phát thanh, truyền hình, qua hội họp, hội thảo, qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp, khiếu kiện,...
- Vận dụng khoa học kĩ thuật, công nghệ trong việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, trong đó có thể sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, trí tuệ nhân tạo vào công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để các quy định pháp luật có thể được pháp điện hóa, thống kê, phân loại, tổng hợp, người dân dễ tiếp cận, dễ hiểu, dễ vận dụng phải sử dụng;
- Phát triển mạnh mẽ các lực lượng bổ trợ tư pháp, phát triển đội ngũ Luật sư về số lượng, chất lượng, phân bố đều phải rộng khắp ở các địa phương để kịp thời hỗ trợ, tư vấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người dân và giúp người dân sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Một xã hội chỉ văn minh, tiến bộ khi hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, khoa học, có tính khả thi và người dân hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, biết sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Một xã hội văn minh là con người lấy pháp luật làm thước đo cho hành vi của mình, chuẩn mực pháp luật cũng sẽ là chuẩn mực đạo đức xã hội, trở thành nét văn hóa trong ứng xử, đời sống xã hội.
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Phó Giám đốc bắt cóc, hiếp dâm bé gái 15 tuổi đối diện với hình phạt nào?
Quy trình xem xét miễn nhiệm, từ chức theo quy định mới nhất
(LSVN) - Ngày 03/11, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 41-QĐ/TW về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Quy định này thay thế Quy định số 260-QĐ/TW, ngày 02/10/2009 của Bộ Chính trị và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 03/11/2021. Vậy theo quy định mới này, quy trình xem xét miễn nhiệm, từ chức được thực hiện như thế nào? Bạn đọc L.A. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Miễn nhiệm là việc cấp có thẩm quyền quyết định cho cán bộ thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm do không đáp ứng được yêu cầu công việc, uy tín giảm sút, có vi phạm nhưng chưa đến mức xử lý kỷ luật cách chức.
Từ chức là việc cán bộ tự nguyện xin thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm và được cấp có thẩm quyền chấp thuận.
Tại Điều 8 Quy định 41-QĐ/TW quy định rõ quy trình xem xét miễn nhiệm, từ chức. Theo đó, khi có đủ căn cứ miễn nhiệm, từ chức, chậm nhất trong thời gian 10 ngày làm việc thì cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ hoặc cơ quan tham mưu về công tác cán bộ có trách nhiệm trao đổi với cán bộ và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, cho từ chức trong thời gian 10 ngày làm việc; trường hợp cần thiết vì lý do khách quan thì có thể kéo dài không quá 15 ngày làm việc.
Căn cứ quyết định của cấp có thẩm quyền, các cơ quan có liên quan thực hiện quy trình, thủ tục theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, điều lệ, quy chế hoạt động của từng tổ chức.
Hồ sơ miễn nhiệm, từ chức gồm:
- Tờ trình của cơ quan tham mưu về công tác cán bộ.
- Quyết định, kết luận, thông báo, ý kiến của cơ quan có thẩm quyền, biên bản hội nghị, đơn của cán bộ xin từ chức, báo cáo đề nghị của cơ quan sử dụng cán bộ và các tài liệu có liên quan.
Về việc bố trí công tác đối với cán bộ sau khi từ chức, cán bộ sau khi từ chức nếu có nguyện vọng tiếp tục công tác thì cấp có thẩm quyền có thể căn cứ vào năng lực, đạo đức, kinh nghiệm để xem xét, bố trí công tác phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Cán bộ đã từ chức và bố trí công tác khác, nếu được cấp có thẩm quyền đánh giá tốt, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện và khắc phục được những yếu kém, sai phạm, khuyết điểm thì có thể được xem xét để quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy định.
HỒNG HẠNH
6 trường hợp miễn nhiệm, 4 trường hợp xem xét từ chức đối với cán bộ
Pháp luật Việt Nam: Chặng đường phát triển và hội nhập
(LSVN) - Ngày Pháp luật nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một ngày lễ kỷ niệm được tổ chức vào ngày 09 tháng 11 hàng năm, bắt đầu từ năm 2013. Ngày 09/11 được lấy là Ngày Pháp luật Việt Nam bởi đây là ngày Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam được thông qua (ngày 09/11/1946), ý nghĩa của ngày “khai sinh” ra bản Hiến pháp đầu tiên rất được trân trọng.
![]()
Cảm nhận và suy nghĩ!
Nhân kỷ niệm Ngày Pháp luật Việt Nam (09/11), với tư cách là một người đứng trong hàng ngũ Luật sư Việt Nam; bản thân lại có những trải nghiệm, những kinh nghiệm trong hoạt động tư vấn pháp luật tôi rất vinh dự và tự hào được viết nên những cảm nhận, những suy nghĩ trăn trở của bản thân tổng kết, nhìn lại những chặng đường phát triển của Pháp luật Việt Nam, những thời cơ hội nhập trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Đồng thời, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của pháp luật Việt Nam, tôn vinh những cá nhân và tổ chức đang ngày đêm cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng và hoàn thiện pháp Luật Việt Nam, trong đó phải kể đến đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật theo quy định của Luật Luật sư.
Ngày Pháp luật nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một ngày lễ kỷ niệm được tổ chức vào ngày 09 tháng 11 hàng năm, bắt đầu từ năm 2013. Ngày Pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam (2012). Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành riêng một Nghị định quy định về vấn đề này, tại Nghị định 28/2013/NĐ-CP Chính phủ quy định Ngày pháp luật có thể được tổ chức dưới các hình thức như: Mít tinh; Hội thảo; Tọa đàm; Thi tìm hiểu pháp luật; Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lưu động, triển lãm và các hình thức khác theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Đến nay, Ngày Pháp luật đã được bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương và đông đảo nhân dân tích cực hưởng ứng, thực hiện nghiêm túc, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, góp phần khơi dậy ý thức trách nhiệm công dân, nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, nâng cao hiệu quả xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật trong xã hội. Đây là ngày để khẳng định vị trí thượng tôn của pháp luật trong đời sống xã hội, nâng cao ý thức chấp hành và bảo vệ pháp luật tại Việt Nam và thúc đẩy tiến trình xây dựng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngày 09/11 được lấy là Ngày Pháp luật Việt Nam bởi đây là ngày Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam được thông qua (ngày 09/11/1946), ý nghĩa của ngày “khai sinh” ra bản Hiến pháp đầu tiên rất được trân trọng. Đó cũng chính là lý do Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (2012) quy định ngày 09/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Điều 8 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (2012) cũng nêu rõ Ngày Pháp luật được tổ chức nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội. Ngày Pháp luật còn là sự kiện chính trị, pháp lý có ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa xã hội sâu sắc, ngày 9-11 được coi là ngày nhắc nhở giáo dục toàn dân; giáo dục cán bộ, công chức, viên chức, những người làm công tác pháp luật phải luôn gương mẫu, tự giác tuân thủ, chấp hành, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Chặng đường phát triển của pháp luật Việt Nam
Quốc hội Khóa I ngay sau khi ra đời đã tập trung vào nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc. Trong thời gian này, mặc dù yêu cầu lập pháp rất lớn nhưng Quốc hội chỉ ban hành được 11 đạo luật. Tập trung cho lĩnh vực thiết yếu là tổ chức bộ máy nhà nước như bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức chính quyền địa phương; nghĩa vụ quân sự; hôn nhân và gia đình; về cải cách ruộng đất; chế độ báo chí, lập hội, công đoàn; bảo đảm quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín nhân dân; đồng thời, Quốc hội ban hành 53 nghị quyết tập trung về lĩnh vực kinh tế, tổ chức chính quyền, ngoại giao, triển khai thi hành luật; phê chuẩn các sắc luật của Chính phủ. Với số lượng có hạn, các luật, nghị quyết ban hành trong khoảng thời gian 13 năm hoạt động lập pháp của Quốc hội Khóa I nhằm phục vụ xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy nhà nước, vận hành nền kinh tế thuần nông trong thời chiến và một số vấn đề về an ninh quốc phòng, ngoại giao, tôn giáo, dân tộc, quyền công dân…
Từ sau Hiến pháp năm 1959 đến 1975 là thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước, Quốc hội II, III và IV đi vào hoạt động phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành đấu tranh giải phóng miền Nam. Đất nước trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, cả nước tập trung cho tiền tuyến Miền Nam, nên Quốc hội 03 khóa chỉ ban hành được 07 đạo luật, tập trung vào hoàn thiện bộ máy nhà nước mà trước kia chưa ban hành luật để điều chỉnh như: tổ chức Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng ban hành 56 nghị quyết tập trung cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, ngân sách nhà nước, nghị quyết về báo cáo của Chính phủ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 19 pháp lệnh đầu tiên về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ban hành ngày 18/01/1961). Có thể thấy hoạt động lập pháp trong giai đoạn này phản ánh nhiệm vụ lịch sử hàng đầu là đấu tranh giải phóng dân tộc, tiếp đó là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Các đạo luật tập trung xác định nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước thời chiến và luật về nghĩa vụ quân sự và các quyền cơ bản của công dân, những vấn đề kinh tế… Các lĩnh vực đời sống xã hội chưa thực sự phát triển theo chiều sâu trong điều kiện chiến tranh; các quan hệ xã hội còn nhiều đơn giản, bó hẹp trong nền kinh tế, kế hoạch hóa với chỉ một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của Nhà nước; ưu tiên tập trung nguồn lực cho đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Đây là giai đoạn đặc thù mà hoạt động lập pháp chưa đặt ra đòi hỏi bức bách, thường xuyên; nhiều nhu cầu nhà nước ban hành văn dưới luật để điều chỉnh như nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư và trong một chừng mực nhất định là công văn, thông báo... Trong điều kiện này chưa thể hình thành chương trình xây dựng pháp luật và quy trình làm luật một cách toàn diện và đầy đủ.
Năm 1976, Quốc hội khóa VI (1976-1981), đất nước thống nhất hai miền Nam - Bắc, cơ hội phát triển mới mở ra, nhưng thách thức mới trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước cũng lập tức ập đến, đất nước tập trung mọi nguồn lực trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc và giúp Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng; vượt qua bao vây cấm vận, tìm con đường cởi trói phát triển kinh tế. Những giới hạn nhận thức phát triển trong bối cảnh mới, đặc biệt là biến động của tình hình thế giới, khu vực và sự chuyển động bên trong của hệ thống nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến con đường xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Quốc hội khóa VI thông qua Hiến pháp 1980, ban hành được 01 luật là Luật Bầu cử Quốc hội và 32 nghị quyết; Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 06 pháp lệnh, hoạt động lập pháp thời điểm này còn mờ nhạt; hoạt động lập quy vẫn chiếm vị trí quan trọng.
Sự bùng nổ của hoạt động lập pháp thực sự bắt đầu từ Quốc hội khóa VIII khi hoạt động lập pháp vượt lên thách thức mới, tạo khung khổ pháp lý đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; phá thế bao vây cấm vận khơi thông các nguồn lực của đất nước, từ sau Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992, Quốc hội đã ban hành được 40 đạo luật, Hội đồng Nhà nước ban hành được 59 pháp lệnh, đây là thời kỳ hệ thống pháp luật có những chuyển động dích dắc, mở đầu là những đạo luật củng cố tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình tổ chức của các nước xã hội chủ nghĩa, các đạo luật về kinh tế, xã hội theo cơ chế chỉ huy dần chuyển sang mô hình mới, với tư tưởng đột phá về phát triển kinh tế thị trường. Những đạo luật phản ánh tư duy giáo điều, duy ý chí, bó buộc sớm lạc hậu trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn cách mạng và tình hình thế giới lúc bấy giờ. Vào cuối giai đoạn này, Quốc hội đã ban hành các đạo luật chứa đựng tư duy mới, cơ chế quản lý mới đột phá so với các quy định của Hiến pháp 1980 như: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành 21/12/1990... Đây chính là sự phản ánh yêu cầu giai đoạn đổi mới và việc xây dựng hành lang pháp lý đầu tiên cho sự phục hồi nền kinh tế, đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, nhìn nhận về nền pháp luật Việt Nam lúc này thì nhu cầu về hệ thống pháp luật đầy đủ điều chỉnh mọi mặt của đời sống xã hội đặt ra gay gắt trong khi cơ cấu tổ chức hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với vị trí, vai trò.
Trong vòng 30 năm, Quốc hội đã ban hành được 460 đạo luật, 516 nghị quyết, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành được 148 pháp lệnh bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội như: tổ chức bộ máy, quyền con người, quyền công dân, kinh tế, doanh nghiệp, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, tư pháp… phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đưa đất nước hội nhập, cạnh tranh phát triển trong thời kỳ mới. Đặc biệt Quốc hội khóa XIII đã đạt kỷ lục về số lượng luật được ban hành với Hiến pháp 2013 và 108 đạo luật. Quy trình xây dựng pháp luật cũng được sửa đổi, bổ sung làm rõ thời gian và trách nhiệm của các cơ quan tham gia xây dựng luật, kỹ thuật lập pháp được nâng cao bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan trong tiến trình xây dựng luật; hình thành quy trình “sản xuất luật” trong dây chuyền mà “công xưởng” là Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và hạt nhân là đại biểu Quốc hội; góp phần đưa công tác lập pháp dần vào nề nếp, hiệu quả, đáp ứng đòi hỏi giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Thời cơ hội nhập bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Cùng với phát triển kinh tế của đất nước, lĩnh vực “lập pháp”, “hành pháp” và “tư pháp” luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, điều này được thể hiện qua hàng loạt chủ trương, định hướng chỉ đạo của Đảng nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật Việt Nam tiến bộ, mang đậm màu sắc xã hội chủ nghĩa, phát triển và hội nhập quốc tế. Gắn với mỗi thời kỳ lịch sử Đảng và Nhà nước ta luôn để lại những dấu ấn sâu sắc đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, luôn kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn đối với công tác xây dựng và phố biến pháp luật.
Hiện nay Quốc hội cùng các bộ ngành liên quan đang tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật, đi sâu sửa đổi và ban hành các đạo luật trên các lĩnh vực cụ thể điều chỉnh tổ chức bộ máy Nhà nước từ trung ương tới địa phương, các đạo luật chuyên ngành phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu mới trong phát triển đất nước và quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khoảng cách giữa không gian vật lý và không gian kỹ thuật số đang dần được thu hẹp, xuất hiện nhiều thay đổi to lớn và kèm với đó là thể chế cùng khung pháp luật cần được thay đổi để bắt kịp với xu hướng mới, sử dụng công nghệ số trong ban hành, quản lý và phổ biến pháp luật, thậm chí sửa luật để quy định việc sử dụng trí tuệ nhân tạo AI phục vụ cho quá trình tư vấn pháp luật, quá trình xét xử (quá trình tiếp nhận đơn, thụ lý vụ án, ra các phán quyết),…
Vì vậy, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, những tổ chức hành nghề luật, các luật sư tư vấn pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý phải luôn cập nhật, đổi mới tư duy và thích ứng với không chỉ với vấn đề pháp lý trong nước mà còn cả vấn đề pháp lý toàn cầu, kết nối số và sử dụng công nghệ trong hoạt động nghề nghiệp và cung cấp dịch vụ tới người dân.
Tài liệu tham khảo: 1. Hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. 2. 50 năm Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946 - 1996). 3. 60 năm Quốc hội Việt Nam (1946- 2006). 4. 70 năm Quốc hội Việt Nam (1946 - 2016). 5. Cơ sở dữ liệu hồ sơ, tài liệu lưu trữ của Quốc hội. 6. Tuyển tập những bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật (Nxb Pháp lý). |
Luật sư HÀ THỊ KHUYÊN
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền pháp luật trên phương tiện thông tin đại chúng
Vợ chồng Đường 'Nhuệ' chuẩn bị hầu tòa vụ ăn chặn tiền hỏa táng ở Thái Bình
(LSVN) - TAND tỉnh Thái Bình dự kiến ngày 17/11 mở phiên tòa xét xử sơ thẩm Nguyễn Xuân Đường (Đường "Nhuệ", 50 tuổi), Nguyễn Thị Dương (41 tuổi, vợ Đường) cùng 5 đồng phạm về tội "Cưỡng đoạt tài sản" theo Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015.
![]()
Vợ chồng Đường 'Nhuệ' chuẩn bị hầu tòa vụ án liên quan đến ăn chặn tiền hỏa táng.
Phiên tòa do thẩm phán Lương Hải Yến làm chủ tọa. Bào chữa cho vợ chồng bị cáo có 4 Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội.
Theo cáo trạng, từ cuối năm 2017 đến tháng 4/2020, Đường "Nhuệ" tự xưng là Chủ tịch Hiệp hội Tang lễ Thái Bình, dùng nhiều thủ đoạn để cưỡng đoạt tiền của 25 chủ cơ sở dịch vụ tang lễ trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Với mỗi ca hỏa táng, vợ chồng Đường cùng đàn em thu về 500.000 đồng. Số tiền này được các đơn vị kinh doanh dịch vụ hỏa táng nộp lại vào ngày 5 và 20 âm lịch hàng tháng.
Khi có đơn vị dịch vụ tang lễ nào trên địa bàn vi phạm và những đơn vị ở nơi khác tự ý vào nhận đám, Đường “Nhuệ” chỉ đạo Lợi hoặc đàn em xử lý bằng cách chặn xe, đánh người gây cản trở đám tang...
Bằng những thủ đoạn này, từ cuối năm 2017 tới tháng 4/2020, nhóm của Đường đã chiếm đoạt của 25 bị hại tổng số tiền gần 2,5 tỉ đồng.
Trước đó, căn cứ tài liệu điều tra, từ tháng 4 tới tháng 9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt tạm giam Nguyễn Xuân Đường cùng đồng phạm về tội "Cưỡng đoạt tài sản".
Tháng 01/2021, Công an tỉnh Thái Bình hoàn tất kết luận điều tra, đề nghị truy tố Nguyễn Xuân Đường, Nguyễn Thị Dương, Ninh Đức Lợi, Phạm Văn Úy, Nguyễn Khắc Nin và Quách Việt Cường về tội "Cưỡng đoạt tài sản". Ngày 14/5, cơ quan điều tra đề nghị truy tố thêm Bùi Mạnh Tiến về tội danh tương tự.
Tháng 7/2021, VKSND tỉnh Thái Bình hoàn tất cáo trạng truy tố 7 bị cáo ra trước tòa về tội "Cưỡng đoạt tài sản".
Cáo trạng của VKSND tỉnh Thái Bình truy tố Đường "Nhuệ" cùng các bị cáo Ninh Đức Lợi, Phạm Văn Úy, Nguyễn Khắc Nin, Bùi Mạnh Tiến theo Khoản 4, Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt 12-20 năm tù. Quách Việt Cường bị truy tố theo Khoản 3 Điều này với khung hình phạt 7-15 năm tù, còn Nguyễn Thị Dương bị truy tố theo Khoản 2 với mức án đề nghị 3-10 năm tù.
Tuy nhiên, TAND tỉnh Thái Bình đã có văn bản thông báo về việc đưa ra xét xử bị cáo về điều khoản nặng hơn điều khoản VKS truy tố. Theo đó, Nguyễn Thị Dương sẽ bị đưa ra xét xử theo khoản 4, Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 với mức án 12-20 năm tù.
Đường "Nhuệ" hiện lĩnh tổng mức án 7 năm tù về tội "Cố ý gây thương tích" và "Xâm phạm chỗ ở của công dân", còn Nguyễn Thị Dương chấp hành án 4 năm 6 tháng tù về các tội "Cố ý gây thương tích" và "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ".
DUY ANH
Đường 'Nhuệ' bị đề nghị truy tố mức nặng hơn trong vụ ăn chặn dịch vụ hỏa táng ở Thái Bình
Sáng nay bắt đầu tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV
(LSVN) - Sáng nay (10/11), Quốc hội sẽ bắt đầu phiên chất vấn và trả lời chất vấn. Trong mỗi kỳ họp Quốc hội, các phiên chất vấn và trả lời chất vấn luôn được đại biểu, người dân rất quan tâm. Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, các phiên chất vấn chất lượng thì phải từ những câu hỏi hay và phần trả lời đúng trọng tâm được cử tri và nhân dân quan tâm.
![]()
Toàn cảnh phiên thảo luận ngày 09/11.
Chất vấn là một hoạt động giám sát quan trọng của Quốc hội. Đề cập vấn đề này trong báo cáo tại hội nghị triển khai thực hiện chương trình giám sát của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2022, Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường nhấn mạnh, phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ hai là phiên chất vấn và trả lời chất vấn đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, với kỳ vọng tạo hiệu ứng tích cực cho cả nhiệm kỳ.
Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV sẽ có các bộ trưởng thuộc 4 lĩnh vực: Y tế; Lao động - Thương binh và Xã hội; Kế hoạch và Đầu tư; Giáo dục và Đào tạo.
Theo chương trình chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long sẽ trả lời chất vấn đầu tiên. Thời gian trả lời chất vấn của Bộ trưởng Y tế là từ đầu giờ sáng ngày 10/11 và thêm 15 phút chiều cùng ngày.
Đây là lần đầu tiên ông Nguyễn Thanh Long trả lời chất vấn trực tiếp tại nghị trường. Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long sẽ giải trình, làm rõ các nội dung về: Công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thời gian qua và chiến lược phòng, chống dịch, chiến lược vaccine trong thời gian tới; Việc bảo đảm nguồn cung và quản lý giá xét nghiệm Covid-19, thuốc chữa bệnh, trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm; Giải pháp giảm thiểu sự chênh lệch chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh giữa các tuyến, các vùng, miền và nâng cao năng lực của hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt là ở các vùng khó khăn. Định hướng đào tạo, sử dụng và chế độ đặc thù cho đội ngũ cán bộ y tế.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; Bộ trưởng các Bộ: Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ; Tổng Thanh tra Chính phủ, Tổng Kiểm toán Nhà nước cùng tham gia trả lời chất vấn.
Tiếp đến, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung sẽ trả lời nhóm vấn đề về việc thực hiện các gói hỗ trợ cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, bảo đảm tiến độ, đúng đối tượng, hiệu quả. Công tác bảo vệ quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em mồ côi do đại dịch. Thực trạng và nguyên nhân người lao động rời TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh kinh tế trọng điểm phía Nam trong nhiều đợt. Giải pháp tháo gỡ những khó khăn của thị trường lao động theo diễn biến của dịch. Chính sách thu hút lực lượng lao động trở lại làm việc và giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm đối với lực lượng lao động bị mất việc. Việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan theo dõi, kiểm tra việc thực hiện cứu trợ, thiện nguyện bảo đảm đúng chế độ, chính sách.
Tham gia trả lời các nội dung trên có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam; Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Y tế; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trong ngày 11/11, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cùng các thành viên Chính phủ liên quan có thêm gần 1 giờ đồng hồ để tiếp tục trả lời chất vấn đối với nhóm vấn đề thứ hai trước khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đăng đàn.
Đây cũng là lần đầu tiên ông Nguyễn Kim Sơn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Nhóm vấn đề dành cho Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn là: Việc bảo đảm chất lượng dạy và học, tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo trong điều kiện dịch Covid-19; Công tác dạy và học trực tuyến bảo đảm hiệu quả, công bằng trong việc tiếp cận các điều kiện giáo dục, học tập giữa học sinh các vùng miền; Việc giảm tải chương trình học cho học sinh; Việc thu hẹp khoảng cách về giáo dục giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Công tác an toàn trường học, y tế học đường để học sinh, sinh viên có thể trở lại trường học. Phương án tổ chức kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia trong bối cảnh dịch bệnh.
Cùng tham gia giải trình có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam; Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội, Nội vụ, Thông tin và Truyền thông.
Từ 14 giờ 55 ngày 11/11, Quốc hội chất vấn nhóm vấn đề thứ tư thuộc lĩnh vực của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, bao gồm giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế trong bối cảnh tình hình mới; các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh để phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh. Công tác chuẩn bị đầu tư, việc phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn 2021-2025 và kế hoạch năm 2021; giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công và các dự án trọng điểm quốc gia. Tiến độ thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi đầu tư phát triển.
Các Phó Thủ tướng Chính phủ: Lê Minh Khái, Lê Văn Thành; Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Giao thông vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cùng tham gia trả lời chất vấn, giải trình về những vấn đề có liên quan.
Cuối cùng, người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ làm rõ các vấn đề liên quan và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội từ 9 giờ 50 đến 11 giờ 20 sáng 12/11.
HÀ ANH
Quốc hội tiếp tục thảo luận về kế hoạch phát triển KT-XH và công tác phòng chống dịch Covid-19

