Cụ thể, về nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, Chính phủ khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ định hướng của Chính phủ xây dựng, ban hành văn bản về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
Đồng thời, sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp, trong đó, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách tự chủ giáo dục; sửa đổi, bổ sung Luật Viên chức, trong đó, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm, biệt phái, đánh giá viên chức trên cơ sở sản phẩm đầu ra; quy định cụ thể về tiêu chí nhận diện, phát hiện nhân tài. Xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển. Nghiên cứu ban hành quy định về nhân lực chất lượng cao theo hướng quy định rõ về khái niệm, tiêu chí, thẩm quyền xác định nhân lực chất lượng cao trong tổng thể nguồn nhân lực (qua các tiêu chí về trình độ, kết quả đào tạo; kỹ năng nghề nghiệp; kinh nghiệm, uy tín, thành tựu trong công tác).

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Liên quan đến nhiệm vụ, giải pháp về tổ chức thực hiện, Nghị quyết nêu rõ triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch quốc gia, Quy hoạch vùng, quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành, các chương trình, đề án phát triển nguồn nhân lực đã ban hành. Chính phủ giao một cơ quan chủ trì quản lý nhà nước về lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực ở cả khu vực công lập và ngoài công lập, chịu trách nhiệm theo dõi, dự báo, xây dựng chiến lược về phát triển nguồn nhân lực quốc gia và giám sát, đánh giá kết quả thực hiện; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu về nhân lực, lựa chọn lĩnh vực trọng điểm để xây dựng chính sách phát triển nhân lực chất lượng cao; chỉ đạo các cơ quan triển khai chương trình truyền thông mạnh mẽ, nâng cao nhận thức xã hội về phát triển nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, đổi mới công tác dự báo nguồn nhân lực. Tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trọng điểm, gắn với nhóm ngành ưu tiên, nhóm ngành thiếu nhân lực. Xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo từ bậc phổ thông, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyển tiếp; phát triển đa dạng hình thức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức cho người lao động, mở rộng thực hiện hình thức đào tạo trực tuyến.
Đồng thời, thực hiện hiệu quả công tác hướng nghiệp, phân luồng đối với học sinh phổ thông, tăng tỉ lệ học sinh có học lực khá trở lên tham gia giáo dục nghề nghiệp. Dịch chuyển cơ cấu thị trường lao động theo hướng sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với thu nhập cao. Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm quy mô lao động khu vực phi chính thức; giảm hợp lý tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp, xây dựng và ngành dịch vụ, nhất là ngành công nghiệp công nghệ cao.
Hoàn thiện đề án vị trí việc làm của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập các cấp sau sắp xếp tổ chức bộ máy. Thực hiện việc phân cấp mạnh mẽ cho địa phương, cơ sở trong phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao, lưu ý việc chuyển giao thẩm quyền, trách nhiệm cho địa phương, cơ sở phải kèm theo nguồn lực để triển khai thực hiện, bao gồm biên chế và ngân sách. Bảo đảm thực hiện đúng, đủ quy định về mức chi tối thiểu ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo.
Về phát triển, sử dụng nhân lực chất lượng cao, Nghị quyết nêu rõ: Đổi mới mạnh mẽ cơ chế sử dụng, trọng dụng, phát triển, giữ chân nhân lực chất lượng cao để phát huy hiệu quả số nhân tài đã được tuyển dụng, thu hút theo hướng tổ chức các chương trình, công trình, dự án riêng với cơ chế đãi ngộ và môi trường làm việc mang tính mở, khuyến khích đổi mới sáng tạo, đề cao trách nhiệm.
Chú trọng thu hút nhân tài là sinh viên Việt Nam học tập ở nước ngoài, chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, "tổng công trình sư", nhóm nghiên cứu mạnh là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành là người nước ngoài làm việc trong những lĩnh vực mới, lĩnh vực quan trọng (dịch vụ kỹ thuật cao, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, luật,...) ở các khu công nghệ cao, trung tâm tài chính quốc tế, vùng động lực phát triển...

