20 năm công tác và nguy cơ bị “tước bỏ” chế độ phúc lợi xã hội
Vừa lần mở từng trang tài liệu trong tập hồ sơ khá dày, với giọng đượm buồn, bà Ngô Thị Thực vừa kể một cách khá rành mạch: Bà được tuyển dụng vào làm việc đợt đầu tiên của Xý nghiệp Giấy mục Sơn; từ tháng 7/1973 đến tháng 12/1978 là công nhân tại phân xưởng bột giấy; từ tháng 01/1979 đến tháng 10/1993 là công nhân rồi Tổ trưởng tổ cắt xeo bìa cát tông - ngành công nghệ. Ngày 04/10/1993 (do sắp xếp lại lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước) bà được nghỉ việc theo Quyết định số 70 của Xí nghiệp. Từ khi nghỉ việc chưa được nhận bất kỳ chế độ gì của Nhà nước. Nhận thấy trường hợp của bà thuộc diện được giải quyết chế độ BHXH theo quy định của Luật BHXH và Nghị định 115/2015 về tính thời gian có đóng BHXH cho người nghỉ việc trước ngày 01/01/1995, nên từ tháng 5/2024, bà chính thức nộp đơn đề nghị giải quyết chế độ tại BHXH huyện Thọ Xuân. Sau 7 tháng với nhiều lần phản ánh, kiến nghị và hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu, của BHXH huyện Thọ Xuân, bà nhận được câu trả lời: “BHXH Thọ Xuân không có thẩm quyền và không có căn cứ giải quyết”. Cực chẳng đã bà phải uỷ quyền cho con gái mang toàn bộ hồ sơ lên nộp cho BHXH Thanh Hoá để mong được giải quyết chế độ chính sách cho mình. Vậy nhưng, cũng như BHXH huyện Thọ Xuân, sau thời gian dài đằng đẵng bà Thực nhận được các văn bản từ chối của BHXH Thanh Hoá với những dòng chữ: "Với tài liệu hồ sơ hiện có và quy định pháp luật hiện hành, BHXH không có căn cứ xem xét giải quyết”.

Một số tài liệu trong tập hồ sơ.
BHXH Thanh Hoá đã thực sự khách quan, đúng luật?
Nghiên cứu kỹ bộ tài liệu, hồ sơ bà Thực cung cấp, chúng tôi thực sự ngạc nhiên và khó hiểu về cách làm việc của một số lãnh đạo, nhân viên Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá. Họ không chỉ có thái độ làm việc hời hợt, cửa quyền mà hình như cố tình không hiểu nội dung các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực phúc lợi và an sinh xã hội. Với bộ hồ sơ đã nộp cho BHXH thì trường hợp của bà Ngô Thị Thực thuộc đối tượng được xem xét giải quyết chế độ BHXH theo quy định tại Nghị định 115/2015, Thông tư 59/2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thay vì việc cần nghiêm túc, xem xét một cách khách quan, toàn diện hồ sơ tài liệu từ bà Thực nộp và các tài liệu do mình đang quản lý, đối chiếu với hệ thống quy định của pháp luật để có hướng giải quyết thấu tình đạt lý, phù hợp với thực tế thì BHXH Thọ Xuân đã yêu cầu bổ sung nhiều lần và khi đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu thì lại trả lại đương sự với lời phán: “không đủ thẩm quyền và không có căn cứ để giải quyết chế độ cho bà Thực” (trích Văn bản số 348/BHXH-CDBHXH).
Đến lượt BHXH Thanh Hoá, sau khi tiếp nhận hồ sơ của bà Thực vào ngày 10/12/2024, đã không xem xét đầy đủ các thành phần có trong hồ sơ bà Thực đã nộp, không đối chiếu với tài liệu mà BHXH có lưu trữ cùng với các quy định pháp luật liên quan, mà chỉ dựa vào những lý do không có căn cứ pháp lý và thực tiễn để ban hành Văn bản trả lời số 2649/BHXH-QLTST với nội dung: "Không có cơ sở để xem xét, giải quyết theo nội dung đơn đề nghị”. Trong văn bản này BHXH Khu vực VI có đưa ra 3 lý do, gồm:
- Quyết định nghỉ việc ghi là “nghỉ việc về địa phương”, không phải “nghỉ chờ việc”.
- Trong quyết định nghỉ việc của bà Thực có ghi: “được hưởng mọi chế độ của xí nghiệp và nhà nước”.
- Danh sách chuyển ngạch, bậc lương công nhân, nhân viên của Xí nghiệp Giấy Mục Sơn lập ngày 09/8/1993 không có tên bà Thực.
Những lý do BHXH Thanh Hoá sử dụng làm căn cứ để từ chối giải quyết chế độ cho bà Thực là khó chấp nhận được. Bởi, BHXH Thanh Hoá chỉ căn cứ vào các câu chữ tại Quyết định số 70 ngày 04/10/1993 của Xí nghiệp Giấy Mục Sơn như: “… bà Ngô Thị Thực thôi giữ chức Tổ trưởng tổ xeo cắt tông để nghỉ việc về địa phương…” và “các ông bà có tên tại Điều 1 được hưởng mọi quyền lợi của xí nghiệp và Nhà nước ban hành…”. Từ đây BHXH Khu vực VI áp vào khoản 3 Điều 23 Nghị định 115/2015 và Khoản 1 Điều 34 Thông tư số 59/2015 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội để kết luận bà Thực nghỉ việc về địa phương chứ không phải nghỉ chờ việc. Tương tự BHXH Thanh Hoá viện dẫn câu: “…được hưởng mọi chế độ…” để nhận định rằng bà Thực đã nhận các chế độ.
Sự trích dẫn, đánh giá nhận định đó cho thấy BHXH Thanh Hoá vô tình hoặc cố ý không nắm bắt hết tinh thần các quy định pháp luật về tính thời gian công tác và giải quyết chế độ cho người lao động nghỉ việc trước 01/01/1995. Về tinh thần chung của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Nghị định 115/2015 theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014; Nghị định 115/2015 ngày 11/11/2015; Thông tư 59 /2015 và Công văn hướng dẫn số 3595 ngày 18/9/2020 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thì: Các trường hợp nghỉ việc trước ngày 01/01/1995 mà chưa được hưởng chế độ gì thì đều được xem xét giải quyết chế độ BHXH (trừ nghỉ việc do người lao động xin nghỉ vì lý do cá nhân, bị kỉ luật, bị xử lý về hình sự). Ngay tại điểm 1 Mục I Công văn số 3595/LĐTBXH-BHXH nêu rõ: Cơ quan bảo hiểm xã hội căn cứ vào hồ sơ gốc thể hiện thời gian làm việc trong khu vực nhà nước trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để xem xét tính thời gian công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 đối với người lao động, bao gồm các giấy tờ sau: Hợp đồng lao động hoặc Quyết định tuyển dụng;…; Lý lịch gốc và lý lịch bổ sung (nếu có). Như vậy, Quyết định nghỉ việc (không kể nghỉ việc về địa phương hay sau nghỉ việc kèm theo cụm từ gì) đều được coi là một trong các giấy tờ làm căn cứ để cơ quan BHXH tính thời gian công tác trước 01/01/1005 để hưởng BHXH.
Thứ hai, BHXH Thanh Hoá trích dẫn Điều 2 Quyết định số 70/TCLĐ-MS (Quyết định nghỉ việc): “…Các ông bà có tên tại Điều 1 được hưởng mọi chế độ của Xí nghiệp và Nhà nước ban hành” để không giải quyết chế độ. Đây là sự suy diễn thiếu căn cứ và thực tế. Thực tế như trong hồ sơ bà Thực nộp đã thể hiện rõ: Từ khi nghỉ việc đến nay bà Thưc chưa được hưởng bất kỳ một chế độ nào. Điều này đã được các cơ quan như Công ty Giấy Mục Sơn – cơ quan quản lý và sử dụng người lao động, UBND xã Xuân Bái huyện Thọ Xuân, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thanh hoá xác nhận bằng các văn bản theo đúng quy định pháp luật.
Thứ ba, BHXH Thanh Hoá căn cứ vào danh sách “Tổng hợp kết quả chuyển ngạch bậc lương công nhân, nhân viên” của Xí nghiệp Giấy Mục Sơn lập ngày 09/8/1993 không có tên bà Thực để không xem xét, giải quyết chế độ cho bà là không hợp lý. Vì danh sách này có sự sai sót, thất lạc từ phía người sử dụng lao động, đây không phải lỗi của người lao động mà là lỗi của của Xí nghiệp Giấy Mục Sơn và Xí nghiệp Giấy Mục Sơn đã giải trình cụ thể về sai sót này và khẳng định: Bà Ngô Thị Thực được tuyển dụng vào nhà máy năm 1973 và nghỉ việc vào tháng 10/1993, kể từ khi nghỉ việc đến nay chưa được cấp BHXH và chưa được hưởng chế độ 1 lần khi nghỉ việc theo Quyết định số 176/HĐBT ngày 09/10/1989 cũng như các chế độ khác tại địa phương quản lý. Họ cũng cam kết xác nhận này là đúng và hoàn toàn chịu trách nhiệm pháp lý trươc pháp luật.
Hơn nữa nếu ngày 09/8/1993 không có tên bà Thực trong danh sách chuyển lương tức là tại thời điểm đó bà Thực không phải người lao động ở Xí nghiệp Giấy Mục Sơn. Vậy tại sao tháng 10/1993 bà Thực lại có Quyết định số 70 nghỉ việc về địa phương? BHXH Thanh Hoá đánh giá như thế nào về hiệu lực của hai tài liệu này? Một mặt BHXH Thanh Hoá lấy “câu chữ cắt vụn” trong Quyết định số 70 để cho rằng bà Thực nghỉ việc về địa phương chứ không phải nghỉ chờ việc hay bà Thực được hưởng mọi chế độ. Mặt khác lại không công nhận giá trị pháp lý của Quyết định số 70. Vậy BHXH Thanh Hoá có mâu thuẫn trong chính căn cứ nhận định, đánh giá của mình không?
Trước những vấn vừa nêu, thay vì nghiêm túc nghiên cứu kỹ lưỡng các thành phần hồ sơ bà Thực đã nộp, phối hợp với các cơ quan chức năng thu thập các tài liệu nếu thấy còn thiếu, hoặc hướng dẫn người lao động hoàn thiện hồ sơ, thì BHXH Thanh Hoá lại có văn bản hỏi Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội cùng Công ty Giấy Mục Sơn với những dữ liệu do BHXH đưa ra không đầy đủ chính xác để có được ý kiến từ các cơ quan này theo “định hướng sẵn trên nền dữ kiện không chính xác của BHXH” rồi ban hành Văn bản trả lời số 74/BHXH-QLT với nội dung: “Căn cứ vào tài liệu hiện có, nội dung trả lời tại Công văn số 07/CV-GMS và quy định hiện hành, BHXH Khu vực VI không có cơ sở để xem xét, giải quyết…”. Cụ thể, BHXH Khu vực VI căn cứ vào những tài liệu không có trong hồ sơ đã nộp, sử dụng nội dung có tính suy diễn tại Công văn số 07/CV-GMS ngày 25/3/2025 của Công ty Giấy Mục Sơn làm căn cứ từ chối giải quyết chế độ là không phù hợp. Bởi vì về mặt pháp lý, nội dung Công văn số 07/CV-GMS toát lên nội dung cơ bản: bà Thực làm việc tại Xí nghiệp giấy Mục Sơn từ tháng 07/1973 đến tháng 10/1993. Không có tài liệu, hồ sơ hay giấy tờ liên quan đến việc đã giải quyết chế độ một lần cho bà Thực. Vậy nhưng BHXH Thanh Hoá lại nhận định theo hướng bà Thực đã được giải quyết theo Chế độ 176/HĐBT ngày 09/10/1989.
Cần nghiêm túc xem xét và giải quyết đúng đắn vụ việc để góp phần bảo vệ, nâng cao tính nhân đạo, nhân văn của các chủ trương, chính sách an sinh xã hội
Hiện nay, các văn bản pháp quy trong lĩnh vực phúc lợi xã hội đều hướng tới bảo vệ quyền lợi của người lao động. Các Luật BHXH năm 2006 và năm 2014 thể hiện rõ điều này. Ví dụ, khoản 4, Điều 139 Luật BHXH năm 2006 quy định: “Người lao động có thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước trước ngày 01/01/1995, nếu chưa nhận trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp một lần, trợ cấp xuất ngũ, phục viên thì thời gian đó được tính là thời gian đã đóng BHXH”. Đến Luật BHXH năm 2014 vẫn giữ nội dung tương tự. Tại Nghị định 115/2015, Thông tư 59 và cả Công văn 3595 đã nêu rất cụ thể. Đối chiếu với trường hợp của bà Ngô Thị Thực, ngoài các giấy tờ gốc còn lưu giữ được, thì còn có các văn bản xác nhận của những cán bộ quản lý, lãnh đạo công ty Giấy Mục Sơn, các Công văn số 22/CV-GMS ngày 10/8/2024 và Công văn số 22/CV-GMS ngày 02/12/2024 của công ty Giấy Mục Sơn đã khẳng định rõ: Bà Thực có thời gian công tác tại Xí nghiệp Giấy Mục Sơn từ tháng 07/1973 đến tháng 10/1993 với vị trí việc làm cụ thể qua từng giai đoạn, khi nghỉ việc bà Thực chưa được hưởng chế độ 176 hoặc chế độ chính sách gì”.
Thiết nghĩ, những văn bản pháp luật vừa nêu và các tài liệu này đủ để BHXH Thanh Hoá giải quyết chế độ cho bà Thực. Thế nhưng không hiểu sao họ từ chối làm mặc dù họ phải là những người am hiểu chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các văn bản pháp quy?! Thái độ và cách giải quyết vụ việc của bà Thực như cách BHXH đã và đang thực hiện là trái với tính nhân đạo, nhân văn của các văn bản pháp quy trong lĩnh vực phúc lợi xã hội của Đảng và Nhà nước.

