Bộ Tài chính bãi bỏ một số thông tư trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
Ngày 08/11/2024, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 78/2024/TT-BTC bãi bỏ một số thông tư trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/12/2024.
Theo đó, Thông tư 78/2024/TT-BTC quy định bãi bỏ toàn bộ các thông tư trong lĩnh vực tài chính ngân hàng do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành bao gồm: Thông tư 120/2016/TT-BTC ngày 14/7/2016 về Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số điện toán Việt Nam; Thông tư 188/2013/TT-BTC ngày 9/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán.
Thông tư 78/2024/TT-BTC cũng bãi bỏ Thông tư 127/2012/TT-BTC ngày 8/8/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình thủ tục công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp; Thông tư 205/2014/TT-BTC 24/12/2014 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 127/2012/TT-BTC; Thông tư 76/2015/TT-BTC ngày 19/5/2015 của Bộ Tài chính quy định lãi suất cho vay tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và mức chênh lệch lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư.
Chính thức bắt buộc xác thực tài khoản mạng xã hội bằng số điện thoại
Ngày 09/11/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định 147/2024/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 25/12/2024. Theo đó, Nghị định quy định bắt buộc xác thực tài khoản mạng xã hội bằng số điện thoại, không xác thực thì không được bình luận.
Theo Nghị định 147/2024/NĐ-CP, dịch vụ Internet là một loại hình dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ truy nhập Internet và dịch vụ kết nối Internet:
- Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng dịch vụ viễn thông khả năng truy nhập đến Internet;
- Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng viễn thông khả năng kết nối với nhau để chuyển tải lưu lượng Internet.
Trong đó đáng chú ý, Nghị định 147/2024/NĐ-CP quy định trong vòng 90 ngày kể từ ngày 25/12/2024, các mạng xã hội xuyên biên giới và mạng xã hội trong nước phải xác thực tài khoản của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội bằng số điện thoại di động tại Việt Nam. Chỉ trong trường hợp người sử dụng xác nhận không có số điện thoại di động tại Việt Nam thì sẽ xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân.
Trường hợp người sử dụng dịch vụ mạng xã hội sử dụng tính năng livestream với mục đích thương mại thì phải xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân.
Bảo đảm chỉ những tài khoản đã xác thực mới được đăng tải thông tin (viết bài, bình luận, livestream) và chia sẻ thông tin trên mạng xã hội.
Trường hợp trẻ em dưới 16 tuổi sử dụng mạng xã hội thì cha mẹ hoặc người giám hộ đăng ký bằng thông tin của mình và phải giám sát, quản lý nội dung mà trẻ em đăng tải, chia sẻ trên mạng xã hội.
Quy định này chỉ áp dụng đối với những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài cung cấp thông tin xuyên biên giới vào Việt Nam có sử dụng dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam hoặc có tổng số lượt truy cập từ Việt Nam (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trung bình trong thời gian 06 tháng liên tục) từ 100.000 (một trăm nghìn) lượt trở lên và mạng xã hội trong nước.
Kiểm tra trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy của người đứng đầu cơ sở
Ngày 31/10/2024, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 55/2024/TT-BCA sửa đổi, bổ sung một số điều của 04 Thông tư liên quan đến công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Thông tư gồm 8 điều, có hiệu lực thi hành từ 16/12/2024. Trong đó, Thông tư số 55/2024/TT-BCA đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về kiểm tra trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cơ sở.
Cụ thể, Điều 1 Thông tư số 55/2024/TT-BCA đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 141/2020/TT-BCA ngày 23/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định công tác kiểm tra về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của lực lượng Công an nhân dân.
Theo đó, sửa đổi, bổ sung một số quy định, như: Kiểm tra trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cơ sở; kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy của cơ sở, khu dân cư, hộ gia đình, hộ gia đình kết hợp sản xuất kinh doanh theo nội dung quy định tại các Điều 5, 6 và Điều 7 Nghị định số 136/2020/NĐ-CP ngày 24/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy, được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Nghị định số 50/2024/NĐ-CP ngày 10/5/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 136/2020/NĐ-CP ngày 24/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày 18/7/2017 của Chính phủ quy định về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa cháy.
Bên cạnh đó, Thông tư số 55/2024/TT-BCA cũng sửa đổi, bổ sung các khoản 1, 3 và khoản 4 Điều 5 Thông tư số 150/2020/TT-BCA ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy và chữa cháy chuyên ngành.
Cụ thể, sửa đổi, bổ sung Danh mục, số lượng phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trang bị cho 01 Đội phòng cháy, chữa cháy cơ sở và Danh mục, số lượng phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trang bị cho 01 Đội phòng cháy, chữa cháy chuyên ngành.
Ngoài danh mục phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trang bị cho lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy và chữa cháy chuyên ngành, Thông tư quy định: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cơ sở căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm về cháy, nổ tại cơ sở và khả năng bảo đảm kinh phí, có thể quyết định việc trang bị thêm cho lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy và chữa cháy chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý các loại phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cần thiết khác quy định tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định số 50/2024/NĐ-CP.
Quy định mới liên quan đến biểu thuế xuất nhập khẩu
Nghị định số 144/2024/NĐ-CP ngày 01/11/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31/5/2023 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 16/12/2024.
Theo đó, đối với hàng hóa phân khoáng hoặc phân hóa học, có chứa nitơ (mã hàng 31.02), Chính phủ quy định: Urê, có hoặc không ở trong dung dịch nước (mã hàng 3102.10.00); amoni sulphat (mã hàng 3102.21.00); loại khác (mã hàng 3102.29.00); hỗn hợp của amoni nitrat với canxi carbonat hoặc các chất vô cơ khác không phải phân bón (mã hàng 3102.40.00); natri nitrat (mã hàng 3102.50.00); muối kép và hỗn hợp của canxi nitrat và amoni nitrat (mã hàng 3102.60.00); hỗn hợp urê và amoni nitrat ở trong dung dịch nước hoặc dung dịch amoniac (mã hàng 3102.80.00); loại khác, kể cả hỗn hợp chưa được chi tiết trong các phân nhóm trước (3102.90.00) có thuế suất thuế xuất khẩu 5%.
Chính phủ cũng quy định Amoni nitrat có hàm lượng NH4NO3 > 98,5% (mã hàng 3102.30.00.10) thuế suất 0%; loại khác (mã hàng 3102.30.00.90) thuế suất 5%.
Thuế xuất khẩu đối với kẽm chưa gia công; thiếc chưa gia công được quy định như sau:Kẽm, không hợp kim có hàm lượng kẽm từ 99,99% trở lên tính theo khối lượng (mã hàng 7901.11.00); kẽm, không hợp kim có hàm lượng kẽm dưới 99,99% tính theo khối lượng (mã hàng 7901.12.00); hợp kim kẽm (mã hàng 7901.20.00) thuế suất xuất là 10%.
Thiếc chưa gia công (mã hàng 80.01), trong đó, thiếc, không hợp kim (mã hàng 8001.10.00); mặt hàng hợp kim thiếc (mã hàng 8001.20.00) có thuế suất thuế xuất khẩu 10%.
Tại Nghị định, Chính phủ quy định sản phẩm chứa lá thuốc lá, thuốc lá hoàn nguyên, nicotin, hoặc các nguyên liệu thay thế lá thuốc lá hoặc các nguyên liệu thay thế nicotin, dùng để hút mà không cần đốt cháy; các sản phẩm chứa nicotin khác dùng đề nạp nicotin vào cơ thể con người (mã hàng 24.04) thì thuế suất nhập khẩu như sau:
- Các sản phẩm dùng để hút mà không cần đốt cháy chứa lá thuốc lá hoặc thuốc lá hoàn nguyên (mã hàng 2404.11.00); loại khác, chứa nicotin (mã hàng 2404.12); dạng lỏng hoặc gel dùng cho thuốc lá điện tử (mã hàng 2404.12.10); loại khác (mã hàng 2404.12.90); chứa các nguyên liệu thay thế lá thuốc lá (mã hàng 2404.19.10); chứa các nguyên liệu thay thế nicotin (mã hàng 2404.19.20); kẹo cao su có nicotin (mã hàng 2404.91.10); miếng dán nicotin (mã hàng 2404.92.10)… có thuế suất nhập khẩu 50%.
- Thiết bị điện tử dùng cho thuốc lá điện tử và các thiết bị điện hóa hơi cá nhân tương tự (mã hàng 8543.40.00) có thuế suất nhập khẩu 50%.
Nghị định nêu rõ, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của các mặt hàng thuộc nhóm 24.04, các mặt hàng có mã HS 8543.40.00 nêu trên được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng này được phép nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Hình thức công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành trái phiếu
Thông tư 76/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ công bố, báo cáo về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 25/12/2024
Trong đó, Thông tư 76/2024/TT-BTC quy định rõ về hình thức công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành trái phiếu.
Cụ thể, hình thức công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành trái phiếu được quy định tại Điều 6 Thông tư 76/2024/TT-BTC. Theo đó, doanh nghiệp phát hành trái phiếu công bố thông tin cho nhà đầu tư mua trái phiếu theo tối thiểu một trong các hình thức dưới đây:
- Văn bản giấy;
- Văn bản điện tử;
- Đăng tải trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp phát hành.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp phát hành trái phiếu công bố thông tin theo hình thức văn bản điện tử cho Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội tại chuyên trang thông tin về trái phiếu doanh nghiệp.
Sửa đổi, bổ sung trình tự thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai từ 10/12
Thông tư 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30/9/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng. Thông tư 49/2024/TT-NHNN có hiệu lực thi hành từ 10/12/2024.
Theo đó, Thông tư 49/2024/TT-NHNN đã sửa đổi, bổ sung trình tự thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai tại Điều 13 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
Cụ thể, theo Thông tư 49/2024/TT-NHNN, Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, quyết định cấp bảo lãnh cho chủ đầu tư khi:
- Chủ đầu tư đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại Điều 11 Thông tư này (trừ trường hợp ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh cho chủ đầu tư trên cơ sở bảo lãnh đối ứng);
- Chủ đầu tư đã nhận được văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản cấp tỉnh trả lời cho chủ đầu tư về nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua.
Hiện nay, Thông tư số 11/2022/TT-NHNN quy định chỉ ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai khi:
- Trong giấy phép thành lập và hoạt động hoặc tại văn bản sửa đổi, bổ sung giấy phép thành lập và hoạt động của ngân hàng thương mại có quy định nội dung hoạt động bảo lãnh ngân hàng;
- Không bị cấm, hạn chế, đình chỉ, tạm đình chỉ thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai.
Thông tư 49/2024/TT-NHNN cũng sửa đổi, bổ sung trình tự thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai. Theo đó, căn cứ đề nghị của chủ đầu tư hoặc bên bảo lãnh đối ứng, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, thẩm định và quyết định cấp bảo lãnh cho chủ đầu tư.
Bên bảo lãnh và chủ đầu tư ký thỏa thuận cấp bảo lãnh theo quy định tại Điều 26 Luật Kinh doanh bất động sản và quy định tại khoản 12 Điều 3, Điều 15 Thông tư này;
Căn cứ thỏa thuận cấp bảo lãnh đã ký, bên bảo lãnh phát hành văn bản cam kết phát hành thư bảo lãnh cho chủ đầu tư để chủ đầu tư gửi bản sao cho bên mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua nhà ở;
Sau khi ký hợp đồng mua, thuê mua nhà ở, trong đó có quy định nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư, chủ đầu tư gửi hợp đồng mua, thuê mua nhà ở cho bên bảo lãnh để đề nghị bên bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh cho bên mua;
Bên bảo lãnh căn cứ hợp đồng mua, thuê mua nhà ở, thỏa thuận cấp bảo lãnh và văn bản cam kết phát hành thư bảo lãnh để phát hành thư bảo lãnh và gửi cho chủ đầu tư để cung cấp thư bảo lãnh cho bên mua.
Sửa đổi mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại
Nghị định số 128/2024/NĐ-CP ngày 10/10/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2024.
Trong đó, Nghị định 128/2024/NĐ-CP đã sửa đổi khoản 2 Điều 7 về mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại.
Cụ thể, mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại được quy định như sau:
- Mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại.
- Trong trường hợp tổ chức chương trình khuyến mại tập trung theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Nghị định 81/2018/NĐ-CP thì áp dụng mức giảm tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại là 100%. Mức giảm giá tối đa 100% cũng áp dụng đối với các hoạt động khuyến mại trong khuôn khổ các chương trình, hoạt động xúc tiến thương mại do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Không áp dụng hạn mức giảm giá tối đa khi thực hiện khuyến mại giảm giá cho: Hàng hóa dịch vụ khi thực hiện chính sách bình ổn giá của Nhà nước; hàng thực phẩm tươi sống; hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, giải thể, thay đổi địa điểm, ngành nghề sản xuất, kinh doanh.