Vào thế kỷ XIX, thêm nhiều đại dịch trên thế giới bùng phát tuy không gây ra tác động lớn đến các nền chính trị, nhưng ghi đậm dấu ấn trong lịch sử nhân loại bởi ảnh hưởng không nhỏ đến dân số và gây trì trệ nền kinh tế toàn cầu.
Đại dịch tả lần thứ nhất (năm 1817)
Bệnh tả được ghi nhận lần đầu tiên trong y học tại danh mục các căn bệnh của bác sỹ người Hy Lạp cổ đại Hippocrates. Căn bệnh này bắt nguồn vùng châu thổ sông Hằng, nơi có mật độ dân cư tập trung đông đúc. Năm 1817, đại dịch tả lần thứ nhất bùng phát bắt nguồn từ Bengal sau đó lan sang Ấn Độ, Trung Quốc và vùng biển Caspian.
Theo các nhà khoa học, bệnh tả lây qua đường tiêu hoá, đường nước bị nhiễm bẩn bởi các loại chất thải người hoặc động vật, và qua thực phẩm bị nhiễm khuẩn tả trong quá trình chế biến hoặc bảo quản.
Căn bệnh này đã cản trở cuộc hành quân của tướng Hannibal (nhà chiến thuật quân sự tài ba người Carthage), khi 50.000 binh lính bị mắc bệnh do sử dụng nguồn nước bị nhiễm khuẩn tả.
Năm 1855, lần đầu tiên giới y học đã chế tạo ra vaccine, nhưng kể từ khi ca bệnh đầu tiên xuất hiện đến nay, loài người vẫn phải trải qua 7 lần đại dịch tả.
Đại dịch sởi (1848)
Theo các tài liệu cổ còn lưu giữ, năm 804 sau Công Nguyên, tại Thành phố Mashsad, Vương quốc Ba Tư (Iran ngày nay) đã xảy ra một trận đại dịch, giết chết gần 60.000 người. Lúc bấy giờ, bác sĩ người Ba Tư Rhazes, đã có những ghi chép sớm nhất về biểu hiện của căn bệnh sởi.
Nhưng phải đến năm 1757, bác sĩ người Scotland Francis Home mới phát hiện ra mầm bệnh. Năm 1848, một đợt bùng phát sởi ở Hawaii đã giết chết 1/3 số người sống trên đảo. Năm 1875, dịch sởi xảy ra ở đảo quốc Fiji đã quét sạch 40.000 người (khoảng 1/3 dân số) chỉ trong 4 tháng.
Năm 1916, căn bệnh này xuất hiện trở lại ở Pháp, khiến 12.000 người chết (phần lớn là trẻ em). Cũng khoảng thời gian này, trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), khoảng 48.000 binh lính của cả hai phía Đồng minh và Đức bị chết vì các biến chứng của sởi.
Năm 1951, dịch sởi lại tiếp tục tấn công đảo Greenland (Đan Mạch), khiến 4.262 cư dân (chiếm 99,9% dân số) bị nhiễm bệnh.
Mãi đến năm 1963, y học mới tìm ra vaccine ngừa sởi. Trong suốt thời gian đó, ước lượng đã có 249 triệu người trên toàn thế giới chết vì căn bệnh này.
Sau gần nhiều năm công bố loại trừ bệnh sởi, thế giới lại ghi nhận các ổ dịch sởi ở một số nơi như Mỹ, châu Âu, Philippines… trong năm 2019.
Đại dịch hạch lần thứ 3 (1855)
Năm 541 (sau CN) đại dịch hạch lần đầu tiên xuất hiện với tên gọi "Justinian". Đến năm 1350, căn bệnh bùng phát lần hai với tên gọi "Cái chết đen". Năm 1855, một lần nữa, căn bệnh này xuất hiện và cướp đi sinh mạng của ít nhất 15 triệu người trên toàn thế giới. Riêng tại Ấn Độ, căn bệnh này đã khiến 10 triệu người tử vong.
Nguyên nhân ban đầu được xác định do mầm bệnh ký sinh trên chuột và bọ chét ở vùng Vân Nam (Trung Quốc), sau đó bùng phát ra nhiều nơi của nước này và lan sang Ấn Độ.
Đại dịch này được cho là một trong nhưng nguyên nhân gây nên các cuộc nổi dậy Panthay (1856–1873) và Taiping (1850-1864) chống lại sự cai trị của triều đình Mãn Thanh, hay cuộc nổi dậy chống lại sự đàn áp của người Anh ở Ấn Độ.
Năm 1960, đại dịch này mới được xem là kết thúc, khi các ca nhiễm bệnh chỉ còn dưới vài trăm.
Cúm Nga (1889)
Dịch cúm này bắt nguồn từ Siberia và Kazakhstan, sau đó lây lan vào Nga, Phần Lan, Ba Lan và khắp châu Âu, sau đó, tiếp tục lây lan về phía Tây, đến khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Ấn Độ, Australia… Tính đến cuối năm 1890, dịch bệnh này đã giết chết khoảng một triệu người.
Cho đến gần đây, các nhà khoa học mới tìm ra được nguyên nhân của dịch bệnh này có thể do các chủng H3N8 và H2N2 của virus cúm A.
Cúm Tây Ban Nha (1918)
Cúm Tây Ban Nha được cho là có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó lây lan do những người lao động nước này di cư đến Bắc Mỹ và châu Âu.
Chỉ trong vòng 18 tháng, căn bệnh này đã lan rộng và trở thành đại dịch toàn cầu, khoảng 500 triệu người (1/3 dân số thế giới vào thời điểm đó) bị lây nhiễm và 50 triệu người tử vong (nhiều hơn số người chết trong Thế chiến thứ nhất).
Theo các nghiên cứu, dịch bệnh này bùng phát mạnh nhất ở Madrid, Tây Ban Nha vào mùa Xuân năm 1918, bởi thế, nó được đặt tên là Đại dịch cúm Tây Ban Nha.
Cúm châu Á (1956)
Cúm châu Á là đại dịch cúm A của chủng virus H2N2 có nguồn gốc từ Trung Quốc vào những năm 1956 - 1958.
Tháng 6/1957, đại dịch này đã càn quét nước Mỹ, gây ra cái chết của hơn 69.800 người dân sở tại. Theo báo cáo ở Anh và xứ Wales, đại dịch cũng đã lan đến Vương quốc Anh, khiến khoảng 3.550 người tử vong.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 2 triệu người trên thế giới đã thiệt mạng do đại dịch này. Sau này, các nhà khoa học đã tìm ra một loại vaccine có thể ngăn ngừa chủng virus gây bệnh.
Đại dịch HIV / AIDS (1981)
HIV là virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch ở người, lần đầu được phát hiện tại Cộng hòa Congo năm 1976. Dịch bệnh bùng phát từ đầu thập niên 1980.
Nếu không có hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, những người bị HIV/AIDS sẽ dễ dàng mắc phải các bệnh khác, gây nhiễm trùng, dẫn đến tử vong. Virus lây lan qua đường máu và quan hệ tình dục.
HIV/AIDS vẫn là một trong những thảm họa kinh hoàng nhất mà nhân loại phải đối mặt trong nhiều năm gần đây. Tính đến đầu những năm 2000, có gần 35 triệu người tử vong trong số 65 triệu người nhiễm bệnh.
Cho đến nay, các phương pháp điều trị đã được phát triển để làm chậm tiến triển của căn bệnh này. Các biện pháp phòng ngừa và điều trị HIV/AIDS đều đã được cải thiện. Tuy nhiên, theo số liệu cuả Liên hợp quốc, đến cuối năm 2018, vẫn còn khoảng 37,9 triệu người nhiễm HIV/AIDS, trong số đó, 24,5 triệu người đã và đang được điều trị bằng thuốc kháng virus.
Theo History, MPHonline/TG&VN