Theo quy định tại Điều 397 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.
Điều 398 BLTTHS quy định rõ các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Theo đó, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ:
- Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật;
- Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;
- Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
- Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Căn cứ Điều 400 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm gồm:
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Như vậy, khác với thủ tục giám đốc thẩm trong đó quyền kháng nghị được giao cho cả Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân từ cấp tỉnh trở lên, Chánh án Toà án quân sự và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu trở lên, trong thủ tục tái thẩm quyền kháng nghị chỉ giao cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu trở lên. Sự khác biệt này là do trước khi quyết định kháng nghị hay không kháng nghị theo thủ tục tái thẩm cần tiến hành xác minh có hay không có các tình tiết mới và giá trị pháp lí của chúng. Việc làm này chỉ có thể tiến hành bởi các kiểm sát viên hoặc điều tra viên của viện kiểm sát.
Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát là căn cứ để tòa án có thẩm quyền tổ chức phiên tòa tái thẩm và kết quà của phiên tòa tái thẩm có thể liên quan tới quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án và những người khác. Để những người này có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Điều luật quy định sau khi ra quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, Viện kiểm sát có trách nhiệm gửi bản kháng nghị đó cho người bị kết án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị.
Hội đồng tái thẩm có thẩm quyền
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.
- Đình chỉ việc xét xử tái thẩm.
THANH THANH